TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 17/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 4 năm 2024. Tại Điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh H và Điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh H mở phiên tòa công khai trực tuyến, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 14/2024/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2024/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:
Phạm Văn S, sinh ngày 26 tháng 7 năm 1998; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không;
Nơi cư trú: Xóm B, xã T, huyện C, tỉnh H;
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; con ông Phạm Văn L, sinh năm 1969 và con bà Hà Thị V, sinh năm 1968; Vợ Bùi Thị Thu Hiền, sinh năm 2001; Bị cáo có 01 con sinh năm 2021.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/01/2024, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H; Có mặt tại điểm cầu nhà tạm giữ Công an huyện C.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Bà Hà Thị V, sinh năm 1968; vắng mặt.
Nơi cư trú: Xóm Bảm, xã Tây Phong, huyện C, tỉnh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 09/01/2024, Phạm Văn S mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu trắng BKS 28H1-xxxxx của bà Hà Thị V (Là mẹ đẻ của S),S nói với bà V mượn xe để đi có việc, bà V đồng ý.S điều khiển xe mô tô đi từ nhà tại xã Tây Phong, huyện C ra Quốc lộ 6 hướng đi thành phố H. Đi đến khu vực xóm Đỉnh Cun, xã Thu Phong,S gặp một người đàn ông (S từng mua ma túy của người đàn ông này trước đó 1-2 lần).S hỏi: “Còn hàng không cho 200.000đ” (ý là còn ma túy không), người đàn ông đáp “Còn”;S đưa cho người đàn ông số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Người đàn ông đưa lại choS một gói nilon màu trắng, bên trong có chứa 02 viên nén màu hồng. Biết đấy là ma túy,S cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái của mình, rồi điều khiển xe mô tô về xã Tây Phong, huyện C về để sử dụng ma túy thì bị Tổ công tác công an huyện C và Công an xã Thu Phong yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện ở trong lòng bàn tay trái củaS có 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong có chứa 02 (hai) viên nén màu hồng. Tổ công tác đã đưaS cùng toàn bộ tang vật có liên quan và số ma túy về trụ sở Công an xã Thu Phong và mời các thành phần tham gia, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Văn S. Phạm Văn S khai nhận đó là ma túy hồng phiến mua về để sử dụng cho bản thân.
Ngày 09/01/2024, Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh H ra Quyết định trưng cầu số 14/QĐ-CSMT, trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H, để tiến hành xác định khối lượng và giám định loại chất ma túy đối với tang vật thu giữ của Phạm Văn S.
Tại Bản kết luận giám định số: 56/KL-KTHS ngày 15/01/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận: 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong có chứa 02 (hai) viên nén màu hồng thu giữ của Phạm Văn S, sinh năm 1998, trú tại: Xóm Bảm, xã Tây Phong, huyện C, tỉnh H, ngày 09/01/2024 tại xóm Đỉnh Cun, xã Thu Phong, huyện C, tỉnh H gửi giám định có tổng khối lượng là: 0,18g (không phẩy mười tám gam) là ma túy loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên. Cáo trạng số 05/CT-VKSCP, ngày 14/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh H đã truy tố Phạm Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo đồng thời phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn S mức án từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,08gam mẫu chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định;
- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
- Về quyền kháng cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo của bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn S đều khai nhận: Do nghiện chất ma túy nên vào khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 09/01/2024, Phạm Văn S mượn xe mô tô của mẹ đẻ là bà Hà Thị V, nói là mượn xe để đi có việc, bà V đồng ý.S điều khiển xe mô tô đi từ nhà tại xã Tây Phong, huyện C ra Quốc lộ 6 hướng đi thành phố H. Đi đến khu vực xóm Đỉnh Cun, xã Thu Phong,S gặp một người đàn ông,S hỏi: “Còn hàng không cho 200.000đ”, người đàn ông đáp “Còn”;S đưa cho người đàn ông số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Người đàn ông đưa lại choS một gói nilon màu trắng, bên trong có chứa 02 viên nén màu hồng.S biết đó là ma túy nên cầm trong lòng bàn tay trái của mình, rồi điều khiển xe mô tô đi về xã Tây Phong, huyện C để sử dụng thì bị Tổ công tác công an huyện C và Công an xã Thu Phong yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện ở trong lòng bàn tay trái củaS có 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong có chứa 02 (hai) viên nén màu hồng. Phạm Văn S khai nhận đó là ma túy hồng phiến mua về để sử dụng cho bản thân.
[3] Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với kết luận giám định cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh H đã truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó, cần có mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do bị cáo gây ra để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[5] Đối với đối tượng người là đàn ông bán ma túy cho Phạm Văn S,S khai nhận quen biết người đàn ông do trước đây có mua ma túy 1-2 lần tại khu vực đỉnh Cun, huyện C, ngoài ra không còn biết thêm gì về người đàn ông này nữa. Cơ quan CSĐT Công an huyện C không xác định được người đàn ông như bị cáo đã khai nhận. Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã tách ra để tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ. Khi nào có căn cứ sẽ xử lý bằng vụ án khác.
[6] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Hà Thị V cho bị cáo mượn xe môtô để đi, nhưng bản thân bà V không biết làS mượn xe để đi mua ma túy, bà V không có đề nghị và yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu trắng BKS 28H1-xxxxx, cơ quan điều tra đã xác minh đây là xe thuộc sở hữu hợp pháp của bà V. Bản thân bà V không biết việcS mượn xe máy làm phương tiện đi mua “ma túy”, Trong quá trình điều tra cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy này cho bà V là đúng quy định của pháp luật. Nên HĐXX không xem xét.
Căn cứ điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS nhận thấy cần xử lý vật chứng trong vụ án đã thu giữ được như sau:
- Đối với 01(một) phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,08gam mẫu chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định. Xét đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên tuyên tịch thu tiêu hủy;
[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn S 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/01/2024.
3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định. Vụ Phạm Văn S, sinh năm 1998 có hành vi phạm tội về ma túy, xảy ra ngày 09/01/2024, tại xã Thu Phong, huyện C, tỉnh H”. Mặt sau mép dán có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H và chữ ký và tên của các thành phần tham gia. Bên trong có chứa 0,08gam mẫu chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định. (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15 tháng 3 năm 2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C và Chi cục thi hành án dân sự huyện C).
4. Về áp phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội. Bị cáo Phạm Văn S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 13/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 13/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cao Phong - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về