Bản án 13/2023/HS-ST về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 13/2023/HS-ST NGÀY 29/12/2023 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 29 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2023/TLST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Giáp Vũ Q, sinh năm 1992; tại huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Nơi cư trú: Khu Ch, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Giáp Văn B, sinh năm 1960, con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1972, bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Tại bản án hình sự phúc thẩm số 581/2013/HSPT ngày 25/9/2013, Giáp Vũ Q bị Toà án nhân dân dân tối cao xử phạt 15 năm tù về tội Hiếp dân trẻ em. Bị cáo Q chấp hành xong hình phạt ngày 22/9/2022, tính đến ngay bị cáo thực hiện hành vi phạm tội ngày 02/8/2023, bị cáo chưa được xoá án tích nên hành vi phạm tội lần này của bị cáp bị áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Trước khi phạm tội, bị cáo đã bị xét xử về hành vi phạm tội.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 03/8/2023. Áp dụng biện pháp tạm giam ngày 12/8/2023, hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ (có mặt).

1.2. Bị cáo Vũ Công H, sinh năm 1990; tại huyện C, tỉnh Phú Thọ. Nơi cư trú: Khu Q, xã Y, huyện C, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Công L, sinh năm 1966; con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1966, bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Thanh Q, sinh năm 1990 và 01 người con, sinh năm 2017.

Tiền án, Tiền sự: Không.

Nhân thân: Trước khi phạm tội có nhân thân tốt.

Bị cáo Vũ Công H bị bắt, tạm giữ ngày 02/8/2023, chuyển tạm giam ngày 11/8/2023, hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ (có mặt).

2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

2.1. Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1988 Trú tại: Khu Q, xã Y, huyện C, tỉnh Phú Thọ (có mặt).

2.2. Anh Mạc Văn H, sinh năm 1994 Trú tại: Khu C, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 10 phút ngày 02/8/2023 tại đoạn đường lối ra đường Cao tốc Nội Bài- Lào Cai – IC10 thuộc Khu Sơ, thị trấn C, huyện C, tỉnh Phú Thọ, Đội CSĐTTP về Kinh tế - ma túy Công an huyện Cẩm Khê phối hợp với Đội CSGT Công an huyện Cẩm Khê, đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát thì phát hiện một xe ô tô nhãn hiệu Hyundai I10 màu trắng BKS: 88A-155.1x do anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1988 ở Khu Q, xã Y, huyện C điều khiển đi từ cao tốc Nội Bài – Lào Cai ra nút giao IC10 hướng về thị trấn C. Ngồi ở ghế phụ phía trước xe ô tô là Vũ Công H, SN: 1990 ở Khu Q, xã Y, C có biểu hiện vi phạm pháp luật nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra đã phát hiện:

- Tại ghế ngồi sau của xe ô tô: có 02 bao tải xác rắn màu xanh, bên trong mỗi bao tải đều chứa 01 thùng cát tông có in chữ nước ngoài, bên trong mỗi thùng cát tông đều chứa 16 khối hình hộp, kích thước mỗi khối hình hộp khoảng 16cmx13cmx15cm, mỗi khối hình hộp đều có đặc điểm: được bọc bằng giấy in nhiều màu sắc, hoạ tiết, chữ nước ngoài. Tại một cạnh của mỗi khối hình hộp đều có 01 dây dẫn màu xanh dài khoảng 8cm.

- Tại cốp sau của xe ô tô: có 02 bao tải xác rắn màu xanh bên trong mỗi bao tải đều chứa 03 thùng cát tông đều có đặc điểm: in nhiều màu sắc, hoạ tiết, chữ nước ngoài. Bên trong mỗi thùng cát tông có chứa 08 khối hình hộp, kích thước mỗi khối hình hộp khoảng 16cmx13cmx15cm, mỗi khối hình hộp đều có đặc điểm: được bọc bằng giấy in nhiều màu sắc, hoạ tiết, chữ nước ngoài. Tại một cạnh của mỗi khối hình hộp đều có 01 dây dẫn màu xanh dài khoảng 8cm.

Tại chỗ Vũ Công H khai nhận số hàng trên là pháo hoa nổ, H mua của Giáp Vũ Q, sinh năm 1992 ở xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang về bán cho những người có nhu cầu mua để kiếm lời. Đội CSĐTTP về Kinh tế - Ma túy Công an huyện Cẩm Khê đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính thu giữ 04 bao tải xác rắn nêu trên và tạm giữ các đồ vật:

-Thu của Vũ Công H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, bên trong lắp sim số 0964.701.885 và sim số 0971.286.xxx; 01 căn cước công dân mang tên Vũ Công H.

- Thu của anh Nguyễn Đức T 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai I10 màu trắng, BKS; 88A.155.1x; 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Đức T.

Sau đó Đội CSĐTTP về Kinh tế - Ma túy Công an huyện Cẩm Khê đưa người cùng tang vật về trụ sở Công an huyện Cẩm Khê để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ngày 02/8/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Khê đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 176 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ giám định đối với 80 khối hình hộp, kích thước khoảng 16cmx13cmx15cm, đều có đặc điểm: được bọc giấy in nhiều màu sắc, họa tiết. Tại mỗi cạnh của mỗi khối hình hộp đều có dây dẫn màu xanh dài khoảng 8cm được đưa vào 8 thùng cát tông và dán giấy niêm phong. Trên giấy niêm phong có 06 loại chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và 01 hình dấu tròn màu đỏ của Công an thị trấn Cẩm Khê, huyện Cẩm Khê.

Tại Thông báo kết quả giám định sơ bộ số 955/TB-PC09 ngày 02/8/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ: thông báo Kết quả giám định sơ bộ:

80 (tám mươi) khối hộp gửi đến giám định là pháo hoa nổ (có chứa thuốc pháo; khi đốt gây ra tiếng rít, tiếng nổ và tạo ra hiệu ứng màu sắc trong không gian), tổng khối lượng là: 104kg (Một trăm linh bốn ki lô gam).

Ngày 02/8/2023, xét thấy có dấu hiệu tội phạm nên Công an huyện Cẩm Khê đã ra quyết định chuyển hồ sơ vi phạm hành chính đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê để khởi tố, điều tra theo quy định của pháp luật. Cùng ngày Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Khê đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Công H tại khu Quang Trung 1, xã Yên Tập, huyện Cẩm Khê. Kết quả khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Ngày 03/8/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Khê đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Giáp Vũ Q. Tại Cơ quan điều tra, Q tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã cũ, bên trong lắp sim số 0775.278.xxx và sim số 0827.587.xxx, Q khai nhận đây là điện thoại và sim dùng để liên lạc mua bán pháo hoa nổ với H. Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Khê đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Giáp Vũ Q tại thôn Chỉ C, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Kết quả khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Ngày 07/8/2023 tại Kết luận giám định số: 1030/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

“80 khối hình hộp gửi đến giám định là pháo hoa nổ (có chứa thuốc pháo, khi đốt gây ra tiếng rít, tiếng nổ và tạo ra hiệu ứng màu sắc trong không gian) có tổng khối lượng là 104kg.

* Pháo hoa nổ được quy định tại trong Nghị định số: 137/2020/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2020 của chính phủ về quản lý và sử dụng pháo.

Hoàn lại đối tượng giám định: 93kg (chín mươi ba kilogam) mẫu vật là pháo hoa nổ cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định, được niêm phong dán kín trong 07 hộp cát tông đựng mẫu vật gửi đến giám định, bên ngoài mỗi hộp cát tông đều có dán 04 tem giấy niêm phong, trên mỗi giấy niêm phong có 02 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần có liên quan.

Quá trình điều tra đã xác định được như sau:

Do có nhu cầu mua pháo hoa nổ để bán kiếm lời vào dịp tết Nguyên đán, nên ngày 19/7/2023 Vũ Công H sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen có gắn sim số 0971.286.xxx gọi điện đến số điện thoại 0775.278.xxx của Giáp Vũ Q ( H và Q quen biết nhau từ trước đó) để nhờ Q mua hộ pháo hoa nổ, Q đồng ý. Đến ngày 28/7/2023 Q sử dụng điện thoại OPPO màu đen đã cũ có gắn sim số 0827.587.xxx gọi đến số 0971.286.xxx của H và bảo “Người ta bảo có pháo rồi đấy, anh lấy bao nhiêu thùng”, H trả lời “lấy khoảng 05 thùng giàn 36”. Q bảo H một thùng có giá là 10.500.000đ, H đồng ý. Q yêu cầu H chuyển trước cho Q số tiền 10.000.000đ đặt cọc, số tiền còn lại khi nào lấy pháo H thanh toán cho Q. Sau đó H chuyển khoản thành công số tiền: 10.000.000đồng vào số tài khoản 862703199266xx ngân hàng MB của Giáp Vũ Q.

Đến sáng ngày 01/8/2023 Q gọi điện thoại cho H và bảo đã có pháo, H hẹn đến tối cùng ngày sẽ lên lấy pháo, Q đã gửi địa điểm giao pháo cho H qua ứng dụng zalo. Nên vào khoảng 20 giờ cùng ngày H thuê anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1988 ở Khu Q, xã Y, huyện C (là lái xe taxi) trở H đi lên huyện Y, tỉnh Bắc Giang, anh T đồng ý (khi thuê xe, H không nói cho anh T biết việc H đi lên Bắc Giang là để mua pháo hoa nổ). Đến khoảng 22 giờ 15 phút cùng ngày H đi đến xã Đồng Lạc, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang thì gặp Q. Tại đây H trả cho Q số tiền mặt là: 20.000.000 đồng và chuyển khoản vào số tài khoản: 862703199266xx ngân hàng MB của Giáp Vũ Q là: 22.500.000đ. Như vậy tổng số tiền, H mua pháo của Q là: 52.500.000đ. Sau khi nhận được tiền, Q dẫn H đi đến đập cầu Dán thuộc xã Đồng Lạc, huyện Yên Thế để lấy pháo. Q chỉ cho H đến đoạn đường cách đập cầu Dán khoảng 20-30m để nhận pháo, H bảo anh T điểu khiển xe ô tô đến đập cầu Dán. Khi đến nơi thì thấy 01 chiếc ô tô bán tải, có 02 người đàn ông lạ mặt (H và Q đều không biết tên tuổi, địa chỉ của 02 người đàn ông này) đang chờ sẵn ở đó. Thấy xe ô tô taxi của anh T đi đến liền bê 04 bao tải xác rắn từ xe ô tô bán tải cho vào xe ô tô của anh T: để 02 bao tải hàng ghế sau, 02 bao tải cốp xe, tổng số 04 bao tải. H biết đây là số pháo hoa nổ, H mua của Q. Sau khi chuyển hàng lên xe, H bảo anh T điều khiển xe ô tô về huyện Cẩm Khê. Quá trình mua bán, vận chuyển pháo lên xe, anh T chỉ ngồi ở vị trí lái xe, không xuống xe và cũng không hỏi H là hàng gì, H cũng không nói với anh T 04 thùng cát tông trên là pháo hoa nổ. Đến khoảng hơn 01 giờ ngày 02/8/2023, khi anh T điều khiển xe ô tô đến trạm thu phí đường Cao tốc Nội Bài - Lào Cai, lối ra IC10 thuộc Khu S, thị trấn C, huyện C, thì bị Đội CSĐTTP về KT-MT Công an huyện Cẩm Khê phối hợp với Đội CSGT Công an huyện Cẩm Khê tiến hành kiểm tra, thu giữ tang vật và lập biên bản hành chính như đã nêu trên.

Về nguồn gốc số pháo hoa nổ Q đã bán cho H ngày 01/08/2023, Q khai nhận mua của Mạc Văn H, sinh năm 1994 ở cùng thôn với Q với tổng số tiền: 45.000.000đ, số tiền này Q đã thanh toán cho H 01/08/2023. Ngày 31/10/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Khê đã triệu tập H đến làm việc. Tại cơ quan điều tra, H khai nhận Q có chuyển cho H số tiền 45.000.000đ nH đây là số tiền Q nhờ H làm hộ giấy tờ để Q đi xuất khẩu lao động sang Campuchia. Quá trình đấu tranh, H đều không thừa nhận bán pháo hoa nổ cho Q và H cũng không biết số tiền trên là tiền mà Q bán pháo hoa nổ mà có. Cùng ngày, Mạc Văn H cũng đã tự nguyện giao nộp số tiền 45.000.000đ mà Q đã chuyển cho H.

Tại cơ quan điều tra, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các lời khai, các biên bản hỏi cung, biên bản đối chất, vật chứng thu giữ và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số 01/CT-VKSCK-HS ngày 06/12/2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo: Giáp Vũ Q và bị cáo Vũ Công H về tội “Buôn bán hàng cấm”.

Cụ thể: Giáp Vũ Q truy tố về tội Buôn bán hàng cấm quy định tại điểm g, l khoản 2 Điều 190 của Bộ luật hình sự.

Truy tố bị cáo Vũ Công H bị truy tố về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 190 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Q và bị cáo H và đề nghị Hội đồng xét xử.

Xử phạt bị cáo Giáp Vũ Q từ 07 năm đến 08 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 03/8/2023.

Xử phạt bị cáo Vũ Công H từ 05 năm 06 tháng tù đến 07 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 02/8/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Giáp Vũ Q và bị cáo Vũ Công H.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Trả lại 01 Căn cước công dân số 02509001xxxx cho Vũ Công H.

Tịch thu 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, đã qua sử dụng thu giữ của Vũ Công H và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng thu giữ của Giáp Vũ Q để nộp ngân sách nhà nước.

Tịch thu 02 sim điện thoại thu giữ của Vũ Công H số 0964.710xxx và 0971.286.xxx và 02 sim điện thoại của Giáp Vũ Q số 0775.278.xxx; số 0827.587.xxx không còn giá trị sử dụng để tiêu huỷ.

Tịch thu 04 bao tải xác rắn màu xanh dung để đựng pháo không còn giá trị sử dụng để tiêu huỷ.

Tịch thu 93kg mẫu vật còn lại sau giám định là pháp hoa nổ kết luận là hang cấm cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được niêm phong dán kín trong 07 hộp cát tông đựng mẫu vật gửi đến giám định, bên ngoài mỗi hộp cát tông đều có dán 04 tem giấy niêm phong, đều có 02 dấu hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần có liên quan để tiêu huỷ.

Tịch thu số tiền 45.000.000 đ (Bốn mươi lăm triệu đồng) Mạc Văn H sau đó H giao nộp có nguồn gốc Q phạm tội mà có để nộp ngân sách nhà nước.

Thu hồi số tiền 7.500.000đ (Bẩy triệu năm trăm nghìn đồng) bị cáo Giáp Vũ Q thu lời bất chính từ việc bán pháo hoa nổ cho Vũ Công H để nộp ngân sách nhà nước.

Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Khê đã xử lý vật chứng, trả lại lại cho anh Nguyễn Đức T 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai I10, màu trắng bạc BKS 88A155.1x đã cũ, có số máy G3LAGM 202084, số khung” MALA751AAHM545837; 01 căn cước công dân số 025088010410 tên Nguyễn Đức T theo biên bản trả trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu ngày 23/8/2023 là đúng pháp luật nên cần xác nhận.

Về án phí: Bị cáo Giáp Vũ Q thuộc hộ cận nghèo và đề nghị được miễn án phí, nên đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Giáp Vũ Q. Bị cáo Vũ Công H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật số tiền 200.000đồng.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo Vũ Công H và bị cáo Giáp Vũ Q trình bày rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và mong muốn Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Các quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo;

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật.

[2]. Về những chứng cứ xác định có tội được xác định như sau:

Vào khoảng 01 giờ sáng ngày 02/8/2023, tại lối ra đường Cao tốc Nội Bài – Lào Cai - IC 10 thuộc khu S, thị trấn C, huyện C, tỉnh Phú Thọ; Công an huyện Cẩm Khê đã kiểm tra xe ô tô của Nguyễn Đức T, BKS 88A-155.1x thuộc IC10, đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai phát hiện Vũ Công H có hành vi buôn bán 104 kg pháp hoa nổ giá 52.500.000đồng mua của Giáp Vũ Q nhằm mục đích để bán trái phép cho ai có nhu cầu để kiếm lời.

Kết quả điều tra xác định vào khoảng 22 giờ ngày 01/8/2023, tại khu vực đập Cầu Dán thuộc thôn C, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; Giáp Vũ Q bán 104 kg pháo hoa nổ cho Vũ Công H số tiền 52.500.000đồng, sau đó Vũ Công H thuê anh Nguyễn Đức T là lái xe tác xi nhãn hiệu Huynđai I10 BKS 88A.155.1x trở về đến lối ra đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai (IC10) thuộc khu S, thị trấn C, huyện C, tỉnh Phú Thọ thì bị kiểm tra phát hiện bắt giữ.

Do vậy, bản cáo trạng số 01/CT-VKSCK ngày 06/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê truy tố đối với bị cáo Giáp Vũ Q và bị cáo Vũ Công H về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại Điều 190 của Bộ luật hình sự. Cụ thể, bị cáo Vũ Công H bị truy tố về tội Buôn bán hàng cấm quy định tại điểm g khoản 2 Điều 190 của Bộ luật hình sự.

Đối với bị cáo Giáp Vũ Q: Tại bản án hình sự phúc thẩm số 581/2013/HSPT ngày 25/9/2013, Giáp Vũ Q bị Toà án nhân dân dân tối cao xử phạt 15 năm tù về tội Hiếp dân trẻ em. Bị cáo Q chấp hành xong hình phạt ngày 22/9/2022, tính đến ngay bị cáo thực hiện hành vi phạm tội ngày 02/8/2023, bị cáo chưa được xoá án tích nên hành vi phạm tội lần này của bị cáp bị áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm l khoản 2 Điều 190 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ đã truy tố bị cáo về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm g và điểm l khoản 2 Điều 190 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 190. Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 244, 246, 247, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

....

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc bị phạt từ từ 05 năm đến 10 năm:

g) pháo nổ từ 40 kilôgam đến dưới 120 kilôgam;

l) Tái phạm nguy hiểm;

....”.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo H và bị cáo Q đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Nên cả hai bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của bộ luật hình sự.

Bị cáo Vũ Công H có ông nội là Vũ Văn Hoan có công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ được chủ tịch nước tặng thương huân chương kháng chiến và bị cáo có đóng góp ủng hộ tiền cho phong trào xây dựng nông thôn mới và ủng hộ tiền trong phòng chống bênh Covit 19 được UBND xã Y xác nhận cũng được coi là tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Cả bị cáo Vũ Công H và bị cáo Giáp Vũ Q đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về nhân thân: Bị cáo H có nhân thân tốt. Bị cáo Q trước khi phạm tội, bị cáo đã bị xét xử về hành vi phạm tội.

Căn cứ tính chất hành vi phạm tội; căn cứ tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của từng bị cáo thì thấy rằng: Phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với cả bị cáo H và bị cáo Q ở mức tương xứng tính chất, hành vi phạm tội khác nhau của từng bị cáo, mới đảm bảo trừng trị, giáo dục riêng đối với từng bị cáo và phòng ngừa trong xã hội.

[4]. Về hình phạt bổ sung:

Khoản 4 Điều 190 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

Xét thấy: Bị cáo Q và bị cáo H đều không có tài sản có giá trị, không có chức vụ, nghề nghiệp hoặc công việc ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với cả bị cáo H và bị cáo Q.

[5]. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 căn cước công dân số 02509001xxxx của Vũ Công H. Đây là giấy tờ gắn với nhân thân của bị cáo H, không liên quan hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo H.

Đối vơi 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, đã qua sử dụng thu giữ của Vũ Công H và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng thu giữ của Giáp Vũ Q. Đây là hai điện thoại các bị cáo sử dụng là phương tiện liên hệ để thực hiện hành vi buôn bán hàng cấm nên phải tịch thu để nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 sim điện thoại số 0971.286.xxx thu giữ của Vũ Công H và 02 sim điện thoại số 0775.278.xxx và sim điện thoại số 0827.587.xxx thu giữ của Giáp Vũ Q. Đây là 03 số điện thoại các bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên phải tịch thu để tiêu huỷ.

Đối với 01 sim điện thoại số 0964.710xxx của Vũ Công H không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng không còn giá trị sử dụng; tại phiên toà bị cáo không đề nghị xin lại nên phải tịch thu để tiêu huỷ.

Đối với 04 bao tải xác rắn màu xanh dùg để đựng pháo không còn giá trị sử dụng phải tịch thu để tiêu huỷ.

Đối với 93kg mẫu vật còn lại sau giám định là pháp hoa nổ cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được niêm phong dán kín trong 07 hộp cát tông đựng mẫu vật gửi đến giám định, bên ngoài mỗi hộp cát tông đều có dán 04 tem giấy niêm phong, đều có 02 dấu hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần có liên quan là hàng cấm nên phải tịch thu để tiêu huỷ.

Đối với số tiền 45.000.000 đ (Bốn mươi lăm triệu đồng) đã làm rõ nguồn gốc Q có được do bán pháo cho Vũ Công H mà có, sau đó Q chuyển cho Mạc Văn H sau đó H tự nguyện giao nộp. Như vậy, Q có được số tiền này do phạm tội mà có nên phải tịch thu để nộp ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền 7.500.000đồng bị cáo Giáp Vũ Q bán pháo hoa nổ cho bị cáo Vũ Công H chưa thu hồi được, nay cần tịch thu để nộp ngân sách nhà nước.

Đối với chiếc ô tô nhãn hiệu Huyndai I10 màu trắng bạc BKS 88A155.1x đã cũ, có số máy G3LAGM 202084, số khung: MALA751AAHM545837; 01 căn cước công dân số 025088010410 tên Nguyễn Đức T cơ quan điều tra đã đấu tranh làm rõ Nguyễn Đức T không biết Vũ Công H thuê để trở pháo hoa nổ là hàng cấm nên đã xử lý vật chứng trả lại cho Nguyễn Đức T xe ô tô và 01 căn cước công dân của T là có căn cứ cần xác nhận.

[6]. Về án phí: Bị cáo Giáp Vũ Q thuộc đối tượng hộ cận nghèo tại địa phương xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang và bị cáo xin miễn án phí hình sự sơ thẩm. Nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Q.

Bị cáo Vũ Công H phải chịu án phi hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 190, điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Vũ Công H.

Áp dụng điểm g, l khoản 2 Điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Giáp Vũ Q.

Tuyên bố bị cáo Vũ Công H và bị cáo Giáp Vũ Q đều phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

2. Về hình phạt áp dụng:

Xử phạt bị cáo Giáp Vũ Q 06 (Sáu) năm (06 (Sáu) tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo Giáp Vũ Q bị bắt tạm giữ, ngày 03/8/2023.

Xử phạt bị cáo Vũ Công H 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo Vũ Công H bị bắt tạm giữ, ngày 02/8/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; áp dụng a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Trả lại cho bị cáo Vũ Công H 01 Căn cước công dân số 02509001xxxx của Vũ Công H;

Tịch thu 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, đã qua sử dụng thu giữ của Vũ Công H và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng thu giữ của Giáp Vũ Q để nộp ngân sách nhà nước.

Tịch thu của bị cáo Vũ Công H 02 sim điện thoại di động số 0964.710xxx và số 0971.286.xxx và tịch thu của bị cáo Giáp Vũ Q 02 sim điện thoại di động số 0775.278.xxx; số 0827.587.xxx, không còn giá trị sử dụng để tiêu huỷ.

Tịch thu 04 bao tải xác rắn màu xanh không còn giá trị sử dụng để tiêu huỷ. Tịch thu 93kg mẫu vật còn lại sau giám định kết luận là pháp hoa nổ cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được niêm phong dán kín trong 07 hộp cát tông đựng mẫu vật gửi đến giám định, bên ngoài mỗi hộp cát tông đều có dán 04 tem giấy niêm phong, đều có 02 dấu hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần có liên quan để tiêu huỷ.

Tịch thu số tiền 45.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu đồng) theo giấy nộp tiền, số tiền 45.000.000đồng đã chuyển vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm Khê để nộp ngân sách nhà nước.

Thu hồi số tiền 7.500.000đ (Bẩy triệu năm trăm nghìn đồng) của bị cáo Giáp Vũ Q để nộp ngân sách nhà nước.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ ngày 07/12/2023).

Xác nhận cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Khê đã xử lý vật chứng, trả lại lại cho anh Nguyễn Đức T 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai I10, màu trắng bạc BKS 88A155.1x đã cũ, có số máy G3LAGM 202084, số khung” MALA751AAHM545837 và 01 căn cước công dân số 025088010410 tên Nguyễn Đức T theo biên bản trả trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu ngày 23/8/2023, tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ.

4. Về án phí:

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo Giáp Vũ Q.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo Vũ Công H.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Giáp Vũ Q.

Buộc bị cáo Vũ Công H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kế từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2023/HS-ST về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:13/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;