Bản án 13/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21/01/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 16/2020/TLST-HS ngày 23/12/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2021/QĐXXST-HS ngày 08/01/2021 đối với bị cáo:

Giàng Thị S (Tên gọi khác: Không); Sinh năm 1984 tại xã S, huyện T, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản T, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hoá: không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Giàng A L (sinh năm 1967) và bà Cháng Thị L (sinh năm 1968); có chồng là Cháng A H (sinh năm 1981) và có 04 người con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/9/2020 đến ngày 17/9/2020, tạm giam từ ngày 17/9/2020 đến nay, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Pờ Go L, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

Người phiên dịch cho bị cáo: Anh Kháng Quanh V, sinh năm 1992, trú tại: T2, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ ngày 15/9/2020 Giàng Thị S đang ở nhà thì có một người đàn ông lạ mặt đến nhà S chơi, qua hỏi han trao đổi S mua được 01 gói viên hồng phiến của ông ta với giá 1.000.000 đồng (S không đếm số lượng viên). Mua bán xong ông ta đi đâu S không biết, còn S cất giấu số hồng phiến vừa mua được vào trong chiếc túi vải đeo trên người. Đến 18 giờ 30 phút cùng ngày có một người đàn ông lạ mặt (S không quen biết người này) đến nhà S và hỏi mua viên hồng phiến, S bán cho ông ta 01 viên với giá 20.000 đồng, mua xong người đàn ông đi đâu S không biết. Đến 19 giờ cùng ngày tổ công tác Công an huyện Mường Nhé kiểm tra nhà S và phát hiện bắt quả tang S cất giấu 49 viên hồng phiến trong chiếc túi vải đeo trên người và 20.000 đồng. S khai nhận mục đích mua viên hồng phiến về để sử dụng và bán kiếm lời.

Kết luận giám định số 854/GĐ-PC09 ngày 22/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu viên nén màu hồng gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Giàng Thị S là Methamphetamine; Khối lượng vật chứng thu giữ của Giàng Thị S là 5,21 gam.

Cáo trạng số 03/CT-VKSMN ngày 23/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé đã truy tố Giàng Thị S để xét xử về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng truy tố, phần luận tội đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Tuyên bố bị cáo Giàng Thị Sú phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị xử phạt bị cáo từ 07 đến 08 năm tù; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự; Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 4,99 gam Methamphetamine và 01 chiếc túi vải; Trả lại cho bị cáo số tiền 20.000 đồng; Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo nhất trí với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, nhất trí với luận tội về tội danh; điều khoản áp dụng; hình phạt bổ sung; xử lý vật chứng vụ án và án phí; phần hình phạt chính đề nghị xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã tóm tắt ở trên và đúng như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo không tranh luận gì với luận tội của Viện kiểm sát. Lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét hành vi phạm tội và những căn cứ xác định tội danh của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Giàng Thị S khai: Ngày 15/9/2020 bị cáo mua được 5,21 gam Methamphetamine của một người đàn ông dân tộc Mông lạ mặt tại gia đình của S với giá 1.000.000 đồng. Sau khi mua được Methamphetamine, có một người đàn ông lạ mặt mặc trang phục của người Thái, nói tiếng dân tộc Mông đến nhà bị cáo hỏi mua bị cáo 20.000 đồng Methamphetamine, mua bán xong người đàn ông này đi đâu S không biết. Đến 19 giờ cùng ngày thì S bị tổ công tác Công an huyện Mường Nhé kiểm tra hành chính và phát hiện bắt quả tang S cất giấu 5,21 gam Methamphetamine trong chiếc túi vải đeo trên người. Bị cáo S khai mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm lời. Như vậy, lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai và các bản cung có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với kết luận giám định, kết luận điều tra, cáo trạng truy tố và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vậy có đủ căn cứ để xác định hành vi tàng trữ trái phép 5,21 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm lời của bị cáo Giàng Thị S đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 03/CT-VKS-MN ngày 23/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé truy tố bị cáo để xét xử về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án: Đây là vụ án rất nghiêm trọng về ma túy, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, đi ngược lại đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng ngừa các tội phạm về ma túy, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy cần xử phạt bị cáo nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo từ 07 năm đến 08 năm tù. Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất theo đề nghị của viện kiểm sát. Xét đề nghị của viện kiểm sát và người bào chữa là có căn cứ, hợp pháp nên cần xử phạt bị cáo như đề nghị của Viện Kiểm sát và người bào chữa.

Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình của bị cáo khó khăn, hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 251 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán Methamphetamine cho bị cáo và đối tượng người đàn ông lạ mặt đã mua Methamphetamine của bị cáo, do bị cáo không biết tên tuổi địa chỉ của người này, Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh nên không có cơ sở để xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với 4,99 gam Methamphetamine còn lại sau khi đã trích giám định cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc túi vải màu tím, có dây đeo, xét thấy đây là chiếc túi mà bị cáo dùng để đựng ma túy, đã hết giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 20.000 đồng thu giữ của bị cáo S, xét thấy số tiền này bị cáo khai do bán ma túy mà có, tuy nhiên ngoài lời khai của bị cáo thì không có bất cứ tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh việc bị cáo bán ma túy mà có số tiền này, do vậy không có cơ sở để tịch thu nộp ngân sách số tiền trên mà cần căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Xét thấy bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số, thường trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn đề nghị miễn án phí nên chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường Nhé, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người bào chữa đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51và Điều 38 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Giàng Thị S phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý". Xử phạt bị cáo Giàng Thị S 07 (Bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt bị tạm giữ ngày 15/9/2020.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu huỷ 4,99 gam Methamphetamine và 01 chiếc túi vải màu tím, có dây đeo. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/12/2020 giữa Công an huyện Mường Nhé và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé.

Trả lại cho bị cáo Giàng Thị S số tiền 20.000 đồng (Hai mươi nghìn đồng). Số tiền này hiện đang tạm gửi tại số tài khoản 3949.0.1072731.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Mường Nhé.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Giàng Thị Sú.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;