TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 20/05/2021 VỀ TỘI SẢN XUẤT HÀNG CẤM
Ngày 20 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo:
Hoàng Xuân N, sinh ngày 10 tháng 11 năm 19xx tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn C, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn H và bà Nguyễn Thị S; có vợ là Đoàn Thị Thanh Ph (đã ly hôn) và 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 30-01-2021 đến ngày 02-02-2021 chuyển tạm giam; có mặt.
- Người làm chứng: Ông Dương Xuân M; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 01 năm 2021, Hoàng Xuân N đã tìm hiểu quy trình, cách thức sản xuất pháo nổ trên mạng Internet để đốt trong dịp tết. N sử dụng điện thoại vào mạng Internet để mua 500g Lưu huỳnh, 500g KaLiClorat, than hoa, giấy báo, giấy nilon (dùng để bọc thực phẩm), giấy màu đỏ, keo 502 với giá 190.000 đồng. Sau khi mua được nguyên liệu, N chế tạo thuốc pháo bằng cách giã mịn than hoa trộn với bột Lưu huỳnh và KaLiClorat, theo tỉ lệ 1,5:7,5:1. N làm dây cháy chậm bằng cách cho hỗn hợp bột thuốc pháo vào giấy nilon, rồi dùng tay cuộn lại, vê thành sợi dây có đường kính 0,2 cm. N sản xuất pháo nổ thành phẩm bằng cách dùng kéo cắt giấy báo theo 02 khổ rộng 8cm và 5cm, cuộn giấy quanh ống kim loại, rồi lấy thanh gỗ lăn đi, lăn lại và dùng keo dán cố định tạo thành ống pháo. Sau đó, N cho giấy cuộn, nhỏ keo 502 vào một đầu ống pháo để bịt kín một đầu, đổ thuốc pháo, cho dây cháy chậm vào trong ống pháo, dùng cát và keo 502 gắn kín đầu pháo còn lại. N tạo tràng pháo bằng cách kết các quả pháo với nhau qua sợi chỉ dù.
Hồi 15 giờ ngày 29-01-2021, N đang sản xuất pháo nổ tại nhà ở thôn C, xã Q thì bị Tổ công tác Công an huyện Tiên Lãng phát hiện, kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ 01 tràng pháo dài 283cm, gồm 210 quả pháo có đường kính 2,5cm, thân dài 5cm và 07 quả pháo có đường kính 4,2cm, thân dài 8cm (mẫu số 01); 241 quả pháo thành phẩm có đường kính 2,4cm, thân pháo dài 5cm (mẫu số 02); 123 ống pháo có đường kính 4,2cm, dài 8cm (mẫu số 03); 237 ống pháo có đường kính 2,5cm, dài 5cm (mẫu số 04); 112 dây cháy chậm có tổng chiều dài là 16,64m (mẫu số 05); 01 thanh gỗ dài 40cm; 03 ống kim loại kích thước lần lượt là 25,7x1,5cm, 30x1,5cm, 23,5x0,9cm; 01 chiếc kìm dài 19cm; 02 chiếc kéo cắt giấy; 01 lọ keo 502; 01 lọ keo khô; 01 cuộn giấy trắng và 01 cuộn chỉ dù.
Khám xét khẩn cấp nơi ở của N nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án.
Kết luận giám định số 44/KLGĐ-KTPL ngày 30-01-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Các vật hình trụ tròn, vỏ bằng giấy màu đỏ, hai đầu bịt kín, một đầu có gắn sợi dây màu xám liên kết với nhau thành một tràng (mẫu số 01) gửi giám định có tổng khối lượng 4,4kg là pháo nổ, khi đốt hoặc kích thích pháo gây tiếng nổ liên tiếp; Các vật hình trụ tròn, vỏ bằng giấy màu đỏ, hai đầu được bịt kín, một đầu có gắn sợi dây màu xám (mẫu số 02) gửi giám định có tổng khối lượng 3,9kg là pháo nổ, khi đốt hoặc kích thích pháo gây tiếng nổ; 123 vật hình trụ tròn, vỏ bằng giấy màu đỏ, ở giữa có lỗ rỗng, một đầu được bịt kín, một đầu để hở lỗ rỗng ở giữa (mẫu số 03) có tổng khối lượng 9,6kg là các ống pháo (pháo bán thành phẩm), khi đốt hoặc kích thích không gây tiếng nổ; 237 vật hình trụ tròn, vỏ bằng giấy màu đỏ, ở giữa có lỗ rỗng, một đầu được bịt kín, một đầu để hở lỗ rỗng ở giữa (mẫu số 04) có tổng khối lượng 3,2kg là các ống pháo (pháo bán thành phẩm), khi đốt hoặc kích thích không gây tiếng nổ;
112 đoạn dây màu xám, vỏ bằng nilon, bên trong có chất bột màu đen (mẫu số 05) gửi giám định là dây cháy chậm, tổng độ dài 16,64m.
Công văn số 60/CV-PC09 ngày 23-02-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng có nội dung: Lời khai quy trình và cách thức chế tạo pháo nổ của Hoàng Xuân N ở Công văn số 38/CV-CQCSĐT-ĐTTH là tạo ra được pháo nổ và phù hợp với đặc điểm mẫu pháo nổ đã giám định.
Vật chứng của vụ án: 01 hộp giấy niêm phong số 44KTPL/PC09 bên trong có 4,0kg mẫu số 01; 3,6kg mẫu số 02; 2,8kg mẫu số 04 và 15,51m dây mẫu số 05 và 01 hộp giấy niêm phong số 44KTPL-A/PC09 bên trong có 8,1kg mẫu số 03 còn lại sau giám định và 01 thanh gỗ dài 40cm; 03 ống kim loại kích thước lần lượt 25,7x1,5cm, 30x1,5cm, 23,5x0,9cm; 01 chiếc kìm dài 19cm; 02 chiếc kéo cắt giấy (01 kéo màu xanh, 01 kéo màu đen); 01 lọ keo 502; 01 lọ keo khô; 01 cuộn giấy trắng; 01 cuộn chỉ dù chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng.
Tại bản Cáo trạng số 14/CT-VKS ngày 26-4-2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo N về tội Sản xuất hàng cấm theo điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo N đều khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp nội dung bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lãng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và khai điện thoại dùng để mua nguyên liệu sản xuất pháo nổ đã bị mất trước khi bị Công an bắt quả tang. Mục đích sản xuất pháo nổ để đốt vào dịp tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021, ngoài ra không còn mục đích nào khác, việc N sản xuất pháo nổ không có ai biết, giúp sức. Bị cáo thừa nhận việc bị điều tra, truy tố, xét xử là không oan sai, không bị ép buộc khai báo không đúng sự thật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người chứng kiến là ông Dương Xuân M khai: Khoảng 15h ngày 29-01- 2021, ông ở nhà nghe thấy tiếng ồn ào nên đi đến nhà anh Hoàng Văn N xem có chuyện gì thì thấy lực lượng công an bắt giữ anh N và thu giữ tại nhà anh N nhiều pháo thành phẩm, vỏ pháo, dây cháy chậm và một số dụng cụ dùng để làm pháo như thanh gỗ, ống kim loại, keo dán, kéo, kìm …Sau đó ông được lực lượng công an mời chứng kiến sự việc.
Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Cáo trạng số 14/CT-VKS ngày 26-4-2021 truy tố bị cáo N về tội Sản xuất hàng cấm là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù về tội Sản xuất hàng cấm.
Thời hạn chấp hành án phạt tù đối với bị cáo được tính từ ngày tạm giữ 30-01- 2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về vật chứng:
Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy vật chứng của vụ án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra và Điều tra viên Công an huyện Tiên Lãng, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lãng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
- Về tội danh và hình phạt:
[2] Lời khai của bị cáo Hoàng Xuân N tại phiên toà phù hợp với các tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án. Được chứng minh bằng lời khai của người chứng kiến; biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, biên bản khám xét; kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 15 giờ 20 phút ngày 29-01-2021, tại nhà của N, thôn C, xã Q, huyện Tiên Lãng, Công an huyện Tiên Lãng bắt quả tang N có hành vi dùng bột Lưu huỳnh, KaliClorat, than hoa, giấy báo, giấy nilon để sản xuất trái phép 8,3kg pháo nổ và 12,8kg pháo bán thành phẩm (không phải pháo nổ) cùng 16,64m dây cháy chậm. Như vậy, hành vi của bị cáo N đã đủ yếu tố cấu thành tội Sản xuất hàng cấm được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự.
[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, nhận thức được hành vi sản xuất trái phép pháo nổ là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện với mục đích để đốt vào ngày tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021.
[4] Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lãng truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.
[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý, sản xuất pháo nổ, xâm phạm trật tự trị an xã hội. Vì vậy, phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời hạn nhất định mới đảm bảo giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung.
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1; bị cáo có bố đẻ là thương binh hạng 2/3 và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì theo khoản 2. Là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[8] Căn cứ tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy cần áp dụng hình phạt ở mức khởi điểm mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là thỏa đáng.
[9] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định và tài sản riêng, hoàn cảnh kinh tế khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 4 Điều 190 của Bộ luật Hình sự.
[10] Về xử lý vật chứng: 01 hộp giấy còn nguyên dấu niêm phong số 44KTPL/PC09 và 01 hộp giấy còn nguyên dấu niêm phong số 44KTPL-A/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hải Phòng; 01 thanh gỗ dài 40cm;
03 ống kim loại kích thước lần lượt 25,7x1,5cm, 30x1,5cm, 23,5x0,9cm; 01 chiếc kìm dài 19cm; 02 chiếc kéo cắt giấy (01 kéo màu xanh, 01 kéo màu đen); 01 lọ keo 502; 01 lọ keo khô; 01 cuộn giấy trắng; 01 cuộn chỉ dù. Là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[11] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Hoàng Xuân N 18 (Mười tám) tháng tù về tội Sản xuất hàng cấm. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày tạm giữ 30-01-2021.
Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) hộp giấy còn nguyên dấu niêm phong số 44KTPL/PC09 và 01 (Một) hộp giấy còn nguyên dấu niêm phong số 44KTPL- A/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hải Phòng; 01 (Một) thanh gỗ dài 40cm; 03 (Ba) ống kim loại kích thước lần lượt 25,7x1,5cm, 30x1,5cm, 23,5x0,9cm; 01 (Một) chiếc kìm dài 19cm; 02 (Hai) chiếc kéo cắt giấy (01 kéo màu xanh, 01 kéo màu đen); 01 (Một) lọ keo 502; 01 (Một) lọ keo khô; 01 (Một) cuộn giấy trắng; 01 (Một) cuộn chỉ dù.
(Theo biên bản giao nhận nhận vật chứng ngày 18-5-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng).
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Buộc bị cáo N phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bị cáo N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 13/2021/HS-ST ngày 20/05/2021 về tội sản xuất hàng cấm
Số hiệu: | 13/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về