Bản án 13/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 234/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 253/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành T, sinh năm 1994 tại tỉnh Bình Định;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bình Định; Nơi cư trú: không nơi cư trú nhất định; Giới tính: nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Thành T1 và bà Phan Thị Q; chưa có vợ con; Tiền án: không Tiền sự:

- Ngày 10/6/2015, bị Tòa án nhân dân huyện D, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 18 tháng theo Quyết định số 194/2015/QĐ-TA. Chấp hành xong ngày 01/10/2016.

- Ngày 12/7/2017, bị Tòa án nhân dân huyện D Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 21 tháng theo Quyết định số 360/QĐ-TA. Chấp hành xong ngày 27/11/2018.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 11/07/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa

Bị hại: Bà Nguyễn Thị Thùy D, sinh ngày 23/7/2002 (vắng mặt) Địa chỉ: 1C21 ấp E, xã F, huyện G, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội D vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 20 giờ ngày 11/7/2020, do hết tiền để tiêu xài nên Nguyễn Thành T nảy sinh ý định đi cướp giật tài sản của người khác để bán và mua ma túy để sử dụng. Lúc này, T điều khiển xe mô tô biển số 51T7-7412 trên đường Vĩnh Lộc theo hướng từ ngã năm Vĩnh Lộc về cầu Bà Lát thì phát hiện chị Trần Thị Anh T2 đang điều khiển xe mô tô biển số 71B3-701.37 chở chị Nguyễn Thị Thùy D (Sinh ngày 23/7/2002) lưu thông phía trước cùng chiều, chị D có để 01 túi xách ở khoảng giữa của chị T2 và chị D nên T nảy sinh ý định giật chiếc túi xách của chị D. Do đã vượt qua xe mô tô của chị T2 nên T điều khiển cho xe mô tô chạy chậm lại để cho chị T2 vượt lên trước. Sau đó, T điều khiển xe mô tô theo sau xe của chị T2 và chị D, đến trước địa chỉ A6/9Q ấp H, xã I, huyện G, T điều khiển xe vượt lên từ phía sau, áp sát bên phải xe chị T2. Lúc này, T nhìn thấy chị D vừa lấy 01 Điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu trắng cầm trên 02 tay nên T liền dùng tay trái giật chiếc Điện thoại của chị D rồi tăng ga bỏ chạy. Chị D và chị T2 tri hô “Cướp, cướp!” thì được người dân hỗ trợ cùng đuổi theo T. T điều khiển xe bỏ chạy rẽ trái chạy ngược chiều trên đường Trần Văn Giàu nhưng bị người dân đuổi kịp nên quay đầu xe rẽ phải trở lại vào đường Vĩnh Lộc, đến trước địa chỉ 1A128/1 ấp E, xã F, huyện G thì va chạm vào phía sau xe ô tô (chưa rõ biển số) nên ngã xe, T bỏ chạy bộ thì bị người dân đuổi kịp, bắt giữ, giao cho Công an xã Phạm Văn Hai lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thành T, sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh điều tra, xử lý.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Nguyễn Thành T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên, phù hợp lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kết luận định giá tài sản số 2064/KL-HĐĐGTS ngày 18/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh xác định: Một điện thoại di động hiệu Iphone 7 (màu trắng) trị giá 1.900.000 đồng (một triệu chín trăm ngàn đồng).

Về vật chứng:

- 01 Điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu trắng bạc.

- 01 xe mô tô loại Wave không biển số, số máy 626610, số khung 71626610 và 01 biển số xe 51T7-7412.

Tại bản cáo trạng số 212/CT-VKS ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, - Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù, xử lý vật chứng theo quy định.

- Bị cáo Nguyễn Thành T khai nhận hành vi như trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thành T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình giống như nội dung cáo trạng đã truy tố. Vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 11/07/2020, bị cáo T điều khiển xe môtô biển số 51T7-7412 áp sát từ phía sau bên phải chị Nguyễn Thị Thùy D khi chị D đang ngồi trên xe môtô do chị Trần Thị Anh T2 điều khiển rồi nhanh chóng dùng tay trái giật chiếc điện thoại di động Iphone 7 trị giá 1.900.000 đồng của chị D tại trước địa chỉ A6/9Q ấp H, xã I, huyện G, Thành phố Hồ Chí Minh. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang do công an xã I, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh lập lúc 21 giờ 30 phút ngày 11/07/2020, lời khai của người bị hại, vật chứng vụ án, những chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án và kết quả thẩm tra tại phiên tòa.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được luật hình sự bảo vệ. Khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì vụ lợi bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo sử dụng xe máy – làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội (dùng thủ đoạn nguy hiểm), là tình tiết định khung trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Xét nhân thân của bị cáo: Bị cáo có 02 tiền sự chưa được xóa về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không biết ăn năn hối cải mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy cần có hình phạt nghiêm, tiếp tục buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù thêm một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về vật chứng vụ án:

[6] - 01 Điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu trắng bạc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã giao trả cho bị hại nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] - 01 xe mô tô loại Wave không biển số, số máy 626610, số khung 71626610, qua tra cứu thông tin số khung, số máy thì không tìm thấy dữ liệu đăng ký. T khai xe này T mua của 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) cách ngày bị bắt khoảng 01 tuần với giá 900.000 đồng, việc mua bán không làm hợp đồng, người đàn ông không đưa giấy tờ gì cho T. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu xe nhưng đến nay chưa có ai liên hệ. Xét thấy bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[8] 01 biển số xe 51T7-7412, qua tra cứu thông tin biển số thì không tìm thấy dữ liệu đăng ký. Xét thấy bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu và tiêu hủy.

[9] Về trách nhiệm dân sự: bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[11] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, khung hình phạt đối với các bị cáo cũng như xử lý vật chứng vụ án và chấp nhận đề nghị của các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[12] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban T2ờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/07/2020.

Về vật chứng :

- Tịch thu và nộp ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô loại Wave không biển số, số máy 626610. Số khung 71626610.

- Tịch thu và tiêu hủy 01 biển số xe 51T7-7412.

(Vật chứng này Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/11/2020 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh) Về dân sự: Ghi nhận việc bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;