TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 13/2021/HS-PT NGÀY 11/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 11 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 189/2020/TLPT-HS ngày 28 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn M và các bị cáo khác, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 53/2020/HS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hải Dương.
- Bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Văn M, sinh năm: 1990 (tên gọi khác: C) tại xã Q, huyện A, TP. P; Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã Q, huyện A, thành phố P; Chỗ ở: Số 166/51 phố D, phường D, quận L, TP. P; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12;Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1966 và bà Ngô Thị H, sinh năm 1972 ; có vợ và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 20/3/2020 cho đến nay. (Có mặt) 2. Nguyễn Quang A, sinh năm: 1988 tại phường C, quận H, TP. P; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Số 59 phố N, phường C, quận H, thành phố P; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 08/12 ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Danh T, sinh năm 1945; Bùi Thị H, sinh năm 1949; có vợ, chưa có con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 16/01/2020 cho đến nay. (Có mặt) 3. Nguyễn Đức C, sinh năm: 1987 tại : phường V, TP. B, tỉnh Bắc Ninh:
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Số nhà 67, khu X, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Đức Đ, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1965; có vợ và 03 con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 16/01/2020 cho đến nay. (Có mặt) 4. Vũ Văn H, sinh năm: 1975 tại : xã Đ, huyện H, tỉnh Nam Định; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm T, xã Đ, huyện H, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Vũ Quang D (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1934; có vợ và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 02/2011/HSST, ngày 28/01/2011 của TAND huyện H, tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 56 tháng 08 ngày. Ngày 20/11/2014 thi hành xong 200.000đ áp phí HSST và phạt bổ sung 5.000.000 đồng. Bị cáo bị bắt tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 16/01/2020 cho đến nay. (Có mặt) 5. Vũ Đức H1, sinh năm: 1988 tại : xã Đ, Quận A, TP. P; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xã Đ, quận A, TP. P; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa:
9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Vũ Đức Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1961; Vợ con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 16/01/2020 cho đến nay. (Có mặt) Ngoài ra còn 17 bị cáo khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị hoặc có kháng cáo nhưng đã rút trước phiên tòa, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và những người làm chứng vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 12/2019, Nguyễn Quang M1 (thường gọi là M1 nuôi) bàn bạc với Lê Thanh T, Phạm Xuân D để tổ chức sới bạc trên tàu neo đậu ở sông L, huyện N, Hải Dương bằng hình thức đánh xóc đĩa được thua bằng tiền. Nguyễn Quang M1 là người chỉ đạo, điều hành chung; Lê Thanh T là người quản lý nhóm trật tự, hồ lì; Phạm Xuân D là người quản lý nhóm đánh xiên tiền, giữ tiền tẩy, tiền hồ, trả tiền công cho những người đi làm và quản lý chung nhóm cảnh giới, nhóm đưa đón người đánh bạc ra, vào sới bạc. Phạm Xuân D là người lập ra nhóm “lính thủy đánh bộ” trên Facebook để thuận lợi cho việc điều hành, quản lý nhóm người cảnh giới, đưa đón con bạc, cũng như thông báo tình hình khi có lực lượng chức năng phát hiện. Nguyễn Quang M1 thuê Nguyễn Văn Đ lái đò chuyên chở những người làm tại sới bạc, những người đến đánh bạc từ bờ đê sông L ra tàu neo đậu ở trên sông L để đánh bạc và kết thúc đánh bạc chở họ vào bờ đê thuộc địa phận xã L, huyện N để lên xe ô tô đã được nhóm của M1 (nuôi) bố trí từ trước đi ra Đền T để về; thuê Nguyễn Công H2 canh gác, đón những người từ đò lên tàu thủy để làm sới bạc cho M1 nuôi và tham gia đánh bạc; thuê Nguyễn Quang A và Nguyễn Văn H3 làm trật tự ở sới bạc (nhắc nhở những người đánh bạc không nói to, gây mất trật tự trong quá trình đánh bạc) với tiền công 500.000 đồng/mỗi người/01 buổi, thuê Nguyễn Hoàng S và Nguyễn Văn M (thường gọi là C) làm hồ lì (tức là thanh toán tiền thắng thua cho những người tham gia đánh bạc), thu tiền hồ của những người đánh bạc, với tiền công là 500.000 đồng/mỗi người/01 buổi; thuê Nguyễn Trung Q làm nhiệm vụ cảnh giới ở khu vực Đền T cũng như cất giấu và trông xe của các con bạc với tiền công 300.000 đồng/01 buổi, thuê Phùng Văn M2 với tiền công là 300.000 đồng/01 buổi; thuê Trần Anh H4 với tiền công của H4 là 300.000đ/01 buổi, Lê Văn T2 với tiền công là 500.000 đồng/01 buổi làm cảnh giới ở khu vực bờ đê sông L thuộc địa phận xã L, huyện N, Hải Dương; thuê Trần Khánh H5, Trần K, Phùng Văn Đ1, Nguyễn Công C1 làm cảnh giới và sử dụng xe ô tô đưa, đón con bạc vào, ra sới bạc, với tiền công là 300.000 đồng/01 buổi; thuê Hồ Văn T2 lái xe ô tô đưa, đón những người đi làm ở sới bạc và đưa, đón những người tham gia đánh bạc ra, vào sới bạc, với tiền công là 2.000.000 đồng/01 buổi.
Đến ngày 28/12/2019, Nguyễn Quang M1 và Nguyễn Đức T3 thống nhất chung tẩy với nhau theo tỷ lệ T3 góp 20%, M1 góp 80% (tức là góp tiền để thanh toán thắng thua cho các đối tượng đánh bạc, khi các đối tượng đánh bạc đặt tiền chênh lệch giữa cửa chẵn và cửa lẻ). Nguyễn Đức T3 sẽ bố trí người giám sát việc đánh bạc của các con bạc, M1 đồng ý. Sau đó, T3 thuê Bùi Văn M3 và Đặng Văn H6 làm nhiệm vụ giám sát việc đánh bạc của các con bạc, với 1.000.000 đồng/01 buổi đánh bạc. Khoảng 20 giờ ngày 01/01/2020, Phùng Văn M2 đi taxi một mình từ P đến khu vực Đền T, huyện N, Hải Dương để đi làm sới bạc cho M1 nuôi với nhiệm vụ canh gác, lái xe của những người đến đánh bạc cất giấu ở khu vực Đền T, huyện N, Hải Dương. Quá trình làm, M2 thấy xe ô tô của nhóm Vũ Nhân B do Nguyễn Văn Đ2 điều khiển đến đánh bạc nên đã đánh xe ô tô của nhóm B vào nơi cất giấu ở khu vực Đền T, huyện N, tinhe Hải Dương. Tiếp đó, Hồ Văn T2 lái xe ô tô nhãn hiệu Ford Transit, biển số: 15B- 034.01 đón Nguyễn Công C1, Trần Minh S1, Nguyễn Hoàng S, Nguyễn Văn H3, Lê Văn T2, Nguyễn Quang A và chị Nguyễn Thị B1 (là người bán nước trên tàu đánh bạc) từ TP. P đến Đền T, huyện N, Hải Dương. Tại đây, Lê Văn T2, Nguyễn Công C1 xuống xe ô tô để làm nhiệm vụ cảnh giới, hướng dẫn khách vào điểm đánh bạc rồi T2 chở những người còn lại vào khu vực bờ đê Sông L, thuộc địa phận xã L, huyện N, Hải Dương để họ xuống xe ô tô đi bộ xuống bờ đê ra Đò máy (xuồng máy) và Đ chở họ lên tàu neo ở sông L. Sau đó, T2 quay xe lại khu vực Đền T, huyện N, Hải Dương đón thêm Nguyễn Văn Đ2, Vũ Nhân B; Vũ Đình T4, sinh năm 1986, trú ở xã H, Phường K, thành phố P (đi cùng và là bạn của Đ2 và B); chị Nguyễn Thị D1, chị Trần Thị L, sinh năm 1963, trú ở 2/726 Phố L, phường N, quận L, thành phố P; chị Nguyễn Thị Lan A, sinh năm 1979, trú ở 33 Phố L, phường N, quận L, thành phố P; Nguyễn Đức C, sinh năm 1987, trú ở thôn X, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh; chị Đặng Thị N, sinh năm 1977, trú ở phường M, quận H, thành phố Hà Nội; anh Nguyễn Văn T5, sinh năm 1982, trú ở Tiểu khu T, thị trấn N, huyện K, thành phố P, Phạm Văn B2 và một số người khác rồi chở ra bờ đê Sông L, thuộc địa phận xã L, huyện N, tỉnh Hải Dương để Đ lái đò chở những người này lên tàu neo trên Sông L.
Khoảng 21 giờ 30 cùng ngày, Phùng Văn Đ1 điều khiển xe ô tô Toyota - Innova, biển số: 15A - 355.44, chở Trần K đi đón Vũ Đức H1, Nguyễn Văn M (C) và Trần Anh H4 ở khu vực thuộc địa phận xã Đ, quận A, TP. P rồi chở đến khu vực Đền T, huyện N, Hải Dương. Tại đây, Phùng Văn Đ1 xuống xe ô tô để làm bảo vệ, cất giấu xe của con bạc đi đến và đưa, đón con bạc ra vào sới bạc; Trần K lên lái xe ô tô chở những người còn lại trên xe vào ở khu vực bờ đê sông L, thuộc địa phận xã L, huyện N. Trần Anh H4 xuống xe làm cảnh giới, hướng dẫn con bạc lên tàu neo ở sông L, còn Nguyễn Văn M (C) lên tàu làm nhiệm vụ như M1 nuôi đã phân công, còn Trần K lái xe ra khu vực Đền T, huyện N, Hải Dương để cảnh giới, đưa, đón con bạc ra vào sới bạc, Vũ Đức H1 lên tàu để đánh bạc. Khoảng gần 22 giờ cùng ngày Trần Khánh H5 lái xe ô tô (chưa xác minh làm rõ được) chở Lê Thanh T đến bờ đê Sông L để T lên tàu làm nhiệm vụ quản lý nhóm làm trật tự và nhóm làm hồ lì, còn H5 ở lại khu vực Đền T đưa đón những người đánh bạc từ Đền T, huyện N vào bờ đê sông L để lên tàu tham gia đánh bạc. Tiếp đó, Phạm Xuân D lái xe ô tô CX5, biển số biển số 15A - 368.35 chở Nguyễn Quang M1 (M1 nuôi) đến khu vực Đền T, huyện N rồi chở vào khu vực bờ đê sông L thuộc địa phận xã L, huyện N để xuống Đò máy, lên tàu tổ chức đánh bạc. Phạm Xuân D làm nhiệm vụ quản lý nhóm đánh xiên tiền, điều hành liên quan đến việc đưa, đón những người đánh bạc ra, vào sới bạc và kiểm đếm, quản lý tiền hồ cho M1 nuôi. Đến khoảng 22 giờ 30 cùng ngày, anh Nguyễn Quang M1, sinh năm 1986, trú ở Thôn K, Xã P, Huyện T, TP. P chở Nguyễn Đức T3, Đặng Văn H6, Bùi Văn M3, đi từ xã Q, huyện Huyện T, thành phố P đến bờ đê sông L, thuộc địa phận xã L, huyện N để H6, M2 lên tàu làm nhiệm vụ giám sát việc đánh bạc còn Nguyễn Đức T3 quản lý, “chung tẩy” 50.000.000 đồng với M1 nuôi để cùng M1 nuôi tổ chức đánh bạc.
Nguyễn Văn C2 và Vũ Văn H thuê anh Đặng Đức T6, sinh năm 1970, trú ở, khu 5, thị trấn Y, huyện H, tỉnh Nam Định lái xe ô tô nhãn hiệu Kia - Cerato, biển số: 18A - 168.07 đi từ huyện H, tỉnh Nam Định đến điểm bờ đê Sông L thuộc địa phận xã L, huyện N. Sau đó H và C2 lên tàu tham gia đánh bạc, C2 và H yêu cầu T6 chờ để đón về, T6 điều khiển xe ô tô ra thị trấn N, huyện N chơi để chờ C2 và H gọi thì đón đưa về Nam Định. Tại bờ đê sông L, Nguyễn Văn Đ sử dụng Đò chở Nguyễn Hoàng S, Nguyễn Văn H3, Nguyễn Quang A, Nguyễn Văn M và một số người khác từ bờ đề sông L ra tàu neo ở sông L; trên tàu thủy thì Nguyễn Công H2 canh gác, đỡ Đò để tránh Đò va chạm với tàu thủy, soi đèn pin cho Nguyễn Quang A, Nguyễn Hoàng S, Nguyễn Văn H3, Nguyễn Văn M (C) lên tàu làm sới bạc cho M1 nuôi còn một số người khác lên tàu tham gia đánh bạc. Sau đó, Đ tiếp tục lái tàu thủy, khi thì di chuyển cho tàu chạy về địa phận huyện N, tỉnh Hải Dương, khi thì sang địa phận huyện Q, tỉnh Thái Bình:
sau đó cho tàu neo tại địa phận xã L, huyện N, tỉnh Hải Dương. Trong khoảng thời gian từ 22 giờ 30, ngày 01/01/2020 đến 01 giờ 30, ngày 02/01/2020 Nguyễn Văn Đ lái đò, lái tàu, Nguyễn Công H2 bảo vệ cảnh giới trên tàu ở sông L giúp Nguyễn Quang M1; Nguyễn Đức T3 góp chung 50.000.000 đồng tiền tẩy; Lê Thanh T quản lý, điều hành nhóm người làm trật tự là Nguyễn Quang A và Nguyễn Văn H3, quản lý nhóm làm hồ lì là Nguyễn Hoàng S và Nguyễn Văn M (C); Phạm Xuân D quản lý, điều hành đưa tiền nhóm đánh xiên tiền; quản lý tiền hồ do H4 S, M (C) thu của các con bạc; điều hành trong nhóm “lính thủy đánh bộ” trên facebook. Trần Anh H4 làm bảo vệ, cảnh giới ở bờ đê sông L, Nguyễn Công C1, Phùng Văn Đ1, Trần K, Trần Khánh H5, Lê Văn T2, Nguyễn Trung Q, Phùng Văn M2 làm bảo vệ, cảnh giới và bố trí xe ô tô đưa đón những con bạc ra, vào sới bạc ở khu vực Đền T, huyện N. Bùi Văn M3 và Đặng Văn H6 giám sát việc đặt cược của các con bạc và giám sát việc Nguyễn Hoàng S và Nguyễn Văn M (C) thanh toán tiền thắng thua cho các con bạc. Lúc đầu M1 nuôi chỉ đạo Hoàng S xóc cái, sau khi B2 đến B2 thay S xóc cái (ngoài ra B2 dùng số tiền 4.000.000 đồng mang theo đặt cửa); Nguyễn Văn Đ2 sử dụng 10.000.000 đồng; Nguyễn Đức C sử dụng 15.000.000 đồng, Vũ Nhân B sử dụng 5.000.000 đồng, Nguyễn Văn C2 sử dụng 10.000.000 đồng, Nguyễn Văn H sử dụng 11.000.000 đồng, Trần Minh S1 sử dung 10.000.000 đồng, Vũ Đức H1 sử dụng số tiền 8.200.000 đồng và một số người khác đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền với số tiền là 123.200.000 đồng(một trăm hai mươi ba triệu hai trăm nghìn đồng).
Đến khoảng 01 giờ 50 ngày 02/01/2020 mọi người trên tàu không tham gia đánh bạc nữa, từ tàu di chuyển ra Đò được buộc ở ngay sát tàu để Đ chở lên bờ đê sông L, huyện N, Hải Dương, đồng thời thông báo cho Hồ Văn T2 từ khu vực Đền T, huyện N, Hải Dương điều khiển xe ô tô biển số 15B- 034.01 vào bờ đê đón Vũ Nhân B, Trần Minh S1, Nguyễn Văn Đ2, Phạm Văn B2, Lê Văn T2, Nguyễn Văn H3, Nguyễn Hoàng S, Vũ Đức H1, Nguyễn Trung Q, Nguyễn Quang A, Nguyễn Đức C, Trần Anh H4, Nguyễn Thị Lan A, Trần Thị L, Nguyễn Thị D1, Đặng Thị N, Nguyễn Thị B1, Vũ Đình T4, Nguyễn Văn T5 lên xe ô tô; Nguyễn Văn C2 gọi điện thoại cho anh Đặng Đức T6 điều khiển xe ô tô biển số 18A- 168.07 vào bờ đê đón C2 và Vũ Văn H; Đặng Đức H6 gọi điện thoại cho anh Nguyễn Quang M1, sinh năm 1986, điều khiển xe ô tô biển số 15A- 428.48 vào bờ đê đón Nguyễn Đức T3, Bùi Văn M3 và Đặng Văn H6 (anh M1 lái xe vào đón do mệt nên đã giao xe cho M2 lái) để chở ra khu vực Đền T, huyện N. Khi đi được khoảng 02km, thuộc địa phận thôn Mai, xã L, huyện N, tỉnh Hải Dương thì bị các lực lượng chức năng của Công an tỉnh Hải Dương kiểm tra, phát hiện.
Tại bản án sơ thẩm số 53/2020/HS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2020, Tòa án nhân dân huyện N:
- Căn cứ điểm a, c, d khoản 1 Điều 322, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 BLHS, xử phạt Nguyễn Văn M © 30 tháng tù, Nguyễn Quang A 24 tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 BLHS, xử phạt Nguyễn Đức C 42 tháng tù về tội Đánh bạc.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 BLHS, xử phạt Vũ Văn H 39 tháng tù về tội Đánh bạc.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321, Điều 17, Điều 58, Điều 38 BLHS, xử phạt Vũ Đức H1 39 tháng tù về tội Đánh bạc.
Ngoài ra cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với 17 bị cáo khác; hình phạt bổ sung; xử lý vật chứng; án phí; quyền kháng cáo.
hin hi xét xử sơ thẩm, vào các ngày 18, 19, 21, 25, 29 tháng 11 năm 2020, các bị cáo Vũ Văn H, Nguyễn Quang A kháng cáo xin hưởng án treo; các bị cáo Nguyễn Đức C, Vũ Đức H1, Nguyễn Văn M ©, Nguyễn Văn Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn Đ đã tự nguyện rút toàn bộ kháng cáo. Ngày 11/01/2021 Tòa án đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Đ.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Các bị cáo kháng cáo đều có mặt, bị cáo H và Quang A thay đổi kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; các bị cáo C, H1, M giữ nguyên kháng cáo.
- Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, xác định cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Đức C, Vũ Văn H, Vũ Đức H1 về tội Đánh bạc theo điểm b khoản 2 Điều 321 BLHS, xét xử các bị cáo Nguyễn Văn M (C), Nguyễn Quang A về tội Tổ chức đánh bạc theo điểm a, c, d khoản 1 Điều 322 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm bị cáo Quang A, H, C đã nộp trước tiền phạt và án phí sơ thẩm; bị cáo C có giấy chứng nhận đoàn viên tiêu biểu, là tình tiết giảm nhẹ mới. Bị cáo Quang A là đồng phạm tội Tổ chức đánh bạc với vai trò thứ yếu nên áp dụng thêm tình tiết Phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS, đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo từ 7-10 tháng tù. Bị cáo H đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra phát hiện tội phạm nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 54 BLHS, xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, giảm nhẹ từ 9-12 tháng tù. Đối với bị cáo C mặc dù có tình tiết giảm nhẹ mới nhưng mức hình phạt tại cấp sơ thẩm là tương xứng với hành vi của bị cáo; các bị cáo M, H1 không có tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo này. Bị cáo Quang A, H không phải chịu án phí phúc thẩm. Các bị cáo M, C, H1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn quy định tại Điều 333 BLTTHS nên hợp lệ và được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung:
[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cấp sơ thẩm, trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng những chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Trong khoảng thời gian từ 22 giờ 30 phút ngày 01/01/2020 đến 01 giờ 30 phút ngày 02/01/2020, tại sông L thuộc địa phận xã L, huyện N, Hải Dương, Nguyễn Quang M1 đã thực hiện hành vi chuẩn bị tàu, đò máy, thuê người đưa đón những người đánh bạc, thuê người cảnh giới, lái đò để phục vụ cho việc tổ chức đánh bạc; Nguyễn Đức T3 có hành vi góp chung 50.000.000 đồng tiền tẩy với Nguyễn Quang M1. Các bị cáo khác được Nguyễn Quang M1 thuê và thực hiện hành vi giúp cho Nguyễn Quang M1 tổ chức đánh bạc như sau:
- Nguyễn Văn Đ thực hiện hành vi lái đò, lái tàu với số tiền 500.000 đồng/ngày (chưa nhận được tiền công); Nguyễn Công H2 bảo vệ, giữ đò để cho mọi người lên tàu và cảnh giới trên tàu; Lê Thanh T quản lý, điều hành nhóm người làm trật tự và nhóm người làm hồ lỳ gồm Trần Anh H4, Nguyễn Công C1, Phùng Văn Đ1, Trần K, Trần Khánh H5, Lê Văn T2, Phùng Văn M2, Nguyễn Trung Q được thuê 300.000đ/buổi, Lê Văn T2 được thuê 500.000đ/buổi (đều chưa nhận được tiền công); Phạm Xuân D điều hành và quản lý tiền hồ do Nguyễn Hoàng S, Nguyễn Văn M (M, S được thuê 500.000đ/buổi, chưa nhận được tiền công) thu của các con bạc; điều hành trong nhóm “lính thủy đánh bộ” trên Facbook; Nguyễn Đức T3 thuê Bùi Văn M3, Đặng Văn H6 giám sát việc đặt cược của các con bạc và giám sát việc Nguyễn Hoàng S, Nguyễn Văn M (C) thanh toán tiền thắng thua cho các con bạc (M, H6 được thuê 1.000.000đ/buổi, đã nhận được tiền công), thuê Nguyễn Quang A và Nguyễn Văn H3 làm trật tự ở sới bạc. Quang A, H3 được thuê 500.000 đồng/buổi (chưa nhận được tiền công). Khi bắt đầu đánh bạc, Nguyễn Quang M1 chỉ đạo S xóc cái, sau khi Phạm Văn B2 đến, B2 thay S xóc cái để cho Nguyễn Văn Đ2, Nguyễn Đức C, Vũ Nhân B, Nguyễn Văn C2, Vũ Văn H, Trần Minh S1, Vũ Đức H1 và một số người khác đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền, với số tiền các bị cáo khai nhận sử dụng để đánh bạc là 123.200.000 đồng (Một trăm hai mươi ba triệu hai trăm nghìn đồng). Do đó Tòa án nhân dân huyện N xét xử các bị cáo Nguyễn Văn M (C), Nguyễn Quang A về tội Tổ chức đánh bạc theo điểm a, c, d khoản 1 Điều 322 BLHS; xét xử các bị cáo Nguyễn Đức C, Vũ Văn H, Vũ Đức H1 về tội Đánh bạc theo điểm b khoản 2 Điều 321 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật. Về tội danh các bị cáo không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị.
[2] Xét kháng cáo của các bị cáo thì thấy:
Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. Bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Quang A, Nguyễn Đức C, Vũ Văn H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo Vũ Đức H1 khai báo không thành khẩn, quanh co chối tội nên không được hưởng tình tiết này. Bị cáo M ra đầu thú, bị cáo Quang A và bị cáo H có bố đẻ được tặng thưởng huân huy chương nên 03 bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ nêu trên, xử phạt M 30 tháng tù, Quang A 24 tháng tù, C 42 tháng tù, H 39 tháng tù và H1 39 tháng tù.
Tại cấp phúc thẩm bị cáo Quang A, C, H đã nộp trước tiền phạt và án phí sơ thẩm; bị cáo C được tặng thưởng Giấy khen trong hoạt động Đoàn Thanh niên ở địa phương nên áp dụng cho 03 bị cáo thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo Quang A là đồng phạm về tội Tổ chức đánh bạc nhưng chỉ làm nhiệm vụ giữ trật tự với vai trò thứ yếu nên áp dụng cho bị cáo Quang A tình tiết giảm nhẹ tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo H tích cực hợp tác với Công an huyện Thanh Hà trong việc phát hiện tội phạm, hiện nay đã khởi tố vụ án và khởi tố bị can nên áp dụng thêm cho bị cáo H tình tiết giảm nhẹ tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo H1 đã khai báo thành khẩn, thừa nhận hành vi phạm tội của mình nên áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Thấy rằng bị cáo H có nhiều tình tiết giảm nhẹ trong đó có 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 BLHS nên có căn cứ áp dụng Điều 54 BLHS, xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Bị cáo Quang A phạm tội lần đầu, là đồng phạm giữ vai trò cuối cùng với tính chất ít nghiêm trọng, tại cấp phúc thẩm có thêm tình tiết giảm nhẹ mới nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Quang A. Đối với bị cáo H1 và C tuy có tình tiết giảm nhẹ mới nhưng thấy rằng mức hình phạt như cấp sơ thẩm là đã tương xứng với hành vi phạm tội của hai bị cáo; bị cáo M tại cấp phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo, y án sơ thẩm về hình phạt đối với 03 bị cáo này.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí: Bị cáo Quang A và bị cáo H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo M, C, H1 phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn M ©, Nguyễn Đức C, Vũ Đức H1; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 53/2020/HS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hải Dương về hình phạt đối với các bị cáo M, C, H1; sửa bản án về điều luật áp dụng đối với bị cáo C, bị cáo H1.
- Áp dụng điểm a, c, d khoản 1 Điều 322, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Văn M © 30 (Ba mươi) tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 20/3/2020.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 BLHS; xử phạt Nguyễn Đức C 42 (Bốn mươi hai) tháng tù về tội Đánh bạc, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 16/01/2020.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 BLHS, xử phạt Vũ Đức H1 39 (Ba mươi hin) tháng tù về tội Đánh bạc, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 16/01/2020.
2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang A và bị cáo Vũ Văn H; sửa bản án sơ thẩm số 53/2020/HS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hải Dương về điều luật và hình phạt đối với các bị cáo Quang A, bị cáo H.
- Áp dụng điểm a, c, d khoản 1 Điều 322, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 BLHS; xử phạt Nguyễn Quang A 13 (Mười ba) tháng 27 (Hai mươi bảy) ngày tù về tội Tổ chức đánh bạc, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 16/01/2020. Quyết định trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321, điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38, Điều 54 BLHS; xử phạt Vũ Văn H 27 (Hai mươi bảy) tháng tù về tội Đánh bạc, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 16/01/2020.
3. Về án phí phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Bị cáo Nguyễn Quang A, Vũ Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
- Bị cáo Nguyễn Văn M (C), Nguyễn Đức C, Vũ Đức H1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 11/3/2021.
Bản án 13/2021/HS-PT ngày 11/03/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 13/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về