Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 08/04/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 4 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 1024/2020/TLST - HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2020 tranh chấp về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2021, quyết định hoãn phiên tòa số 21 /2021/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị O - Sinh năm 1984( có mặt)

Bị đơn: Anh Hà Quang L - Sinh năm 1978( vắng mặt)

Cùng trú tại: Phòng 3614 Tòa HH3C, phường H, quận H, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện gửi cùng các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị O trình bày:

- Về tình cảm: Chị và anh Hà Quang L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 07/4/2006 tại UBND xã Dân Lý, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đây là lần kết hôn đầu tiên của vợ chồng chị. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng thuê trọ ở nhiều nơi đến năm 2017 thì anh chị mua nhà và sống ở Phòng 3614 Tòa HH3C, phường H, quận H, Hà Nội cho đến nay. Vợ chồng hạnh phúc đến năm 2009 thì phát sinh rất nhiều mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị là do anh L là người nghiện rượu, vô trách nhiệm với gia đình, thường xuyên say xỉn, xúc phạm, đánh đập vợ con thường xuyên. Chị đã nhiều lần khuyên can nhưng anh L không hề thay đổi. Nay chị O xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ chung sống hạnh phúc. chị O yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Hà Quang L.

- Về con chung: chị O xác nhận trong thời kỳ hôn nhân, anh chị có 01 con chung là Hà Quang Đ, sinh ngày 24/6/2006. Ly hôn, chị O có nguyện vọng được nuôi con chung. Hiện chị O đang làm kinh doanh tại Siêu thị MM Mega Market Hà Đông, thu nhập khoảng 10.000.000 đồng/ tháng. chị O không yêu cầu anh L đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nhà ở chung: chị O không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về các khoản nợ chung: chị O xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là anh Hà Quang Lđã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án làm việc, không có ý kiến bằng văn bản gửi Tòa án nên Tòa án không có lời khai của anh Lượng.

Tại phiên tòa: chị Lê Thị Ovẫn giữ yêu cầu xin ly hôn với anh Hà Quang L. Chị trình bày: Trong quá trình Tòa án đang thụ lý, giải quyết ly hôn, anh L còn có hành vi dọa nạt chị, dọa đốt nhà, đốt chung cư gây lo lắng cho bản thân chị và cho hàng xóm, sự việc được chính quyền địa phương chứng kiến. Chị xác định mâu thuẫn giữa chị và anh L đã trầm trọng, kéo dài không thể hàn gắn đoàn tụ được. Chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L để chị ổn định cuộc sống.

Về con chung: chị O xác nhận trong thời kỳ hôn nhân, anh chị có 01 con chung là Hà Quang Đ, sinh ngày 24/6/2006. Ly hôn, chị O có nguyện vọng được nuôi con chung vì anh L từ trước tới nay đều không đóng góp nuôi con, không có nghề nghiệp, nghiện rượu, hay chửi bới con, con trai chị từ trước tới nay đều do chị nuôi dậy, bản thân cháu cũng có ý kiến muốn ở với mẹ. Hiện chị đang làm kinh dOtại Siêu thị MM Mega Market Hà Đông, thu nhập khoảng 10.000.000 đồng/ tháng. Chị không yêu cầu anh L đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nhà ở chung: chị O không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về các khoản nợ chung: chị O xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn là anh Hà Quang Lđã được Tòa án tống đạt quyết định xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của các đương sự, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, đề xuất hướng giải quyết vụ án như sau:

+ Về tố tụng: Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật, xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng, tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử điều khiển phiên tòa theo đúng trình tự, thủ tục. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: chị O và anh L phát sinh mâu thuẫn đã lâu, đến nay không còn tình cảm nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị O anh, cho chị O được ly hôn với anh L ượng.

+ Về con chung: Giao con chung là cháu Hà Quang Đ, sinh ngày 24/6/2006 cho chị O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Về đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung: chị O không yêu cầu anh L đóng góp cấp nuôi con chung nên tạm hoãn việc đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung của anh L kể từ khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung trưởng thành hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác.

anh L có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.

Về tài sản chung và nhà ở chung: chị O không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về các khoản nợ chung: chị O xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: chị O phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tr anh L uận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng: chị Lê Thị Oxin ly hôn với anh Hà Quang L, anh L hiện trú tại phòng 3614 Tòa HH3C Linh Đàm, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Theo quy định tại khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đây là tranh chấp hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Hà Quang Lđã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, giấy báo đến Tòa án lấy lời khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cũng như các văn bản tố tụng khác nhưng anh L không lên Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, không có ý kiến gửi Tòa án. anh L đã tự từ bỏ quyền cung cấp chứng cứ để phản đối yêu cầu của chị O anh. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 điều 227, khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Hà Quang L.

* Về quan hệ hôn nhân:

Chị Lê Thị Ovà anh Hà Quang Lkết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 07/4/2006 tại UBND xã Dân Lý, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Do vậy, hôn nhân là hợp pháp.

Căn cứ vào lời trình bày của chị O và các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện:

sau khi kết hôn, vợ chồng anh chị đã phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh L nghiện rượu, không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên chửi bới, đánh đập vợ con, vợ chồng đã không còn thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Nếu duy trì hôn nhân cũng chỉ gây ức chế, căng thẳng cho các bên mà không đạt được mục đích là duy trì cuộc sống chung hoà thuận, hạnh phúc . anh L không lên Tòa án để làm việc cũng không có ý kiến gửi Tòa án, Tòa án không thể tiến hành hòa giải được chứng tỏ anh L không có thiện chí để cải thiện mối quan hệ vợ chồng, không có biện pháp nào để khắc phục tình trạng mâu thuẫn vợ chồng. Tòa án cũng đã tiến hành xác minh nguyên nhân mâu thuẫn tại chính quyền địa phương. Do vậy Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị O anh.

* Về con chung: chị O xác nhận trong thời kỳ hôn nhân, anh chị có 01 con chung là Hà Quang Đ, sinh ngày 24/6/2006. Ly hôn, chị O có nguyện vọng được nuôi con chung, không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét nguyện vọng nuôi con chung của chị O anh, hội đồng xét xử thấy: chị O hiện đang làm kinh doanh tại Siêu thị MM Mega Market Hà Đông, thu nhập khoảng 10.000.000 đồng/ tháng, chị O có nơi ở cố định nên chị O có đầy đủ điều kiện nuôi con và cũng phù hợp nguyện vọng của con là muốn ở với mẹ. Vì vậy, để đảm bảo điều kiện tốt nhất cho con chung sau ly hôn, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 điều 81 Luật hôn nhân gia đình giao con chung cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục. chị O không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm hoãn việc đóng góp nuôi con chung cho anh L kể từ khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung trưởng thành hoặc khi có sự thay đổi khác.

* Về tài sản chung và nhà ở chung: chị O không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, anh L chưa có ý kiến nên dành quyền khởi kiện cho anh L nếu có yêu cầu.

*Về các khoản nợ chung: chị O xác nhận không có, không yêu cẩu Tòa án giải quyết nên không xem xét. anh L chưa có ý kiến nên dành quyền khởi kiện cho anh L nếu có yêu cầu.

* Về án phí: chị O phải nộp 300.000đồng án phí LHST theo quy định của pháp luật.

* Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại điều 271, điều 273 bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Điều 56, điều 81, điều 82, điều 83 Luật hôn nhân gia đình;

- Khoản 1 Điều 28 và các điều 35, 39, 147, điểm b khoản 2 điều 227, khoản 3 điều 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14

Xử:

1. Chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị O được ly hôn với anh Hà Quang L

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Hà Quang Đ, sinh ngày 24/6/2006 cho chị O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục kể từ khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung trưởng thành, đủ tròn 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác về quyền nuôi con. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung của anh L kể từ khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung trưởng thành, đủ tròn 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác.

anh L có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản chung và nhà ở chung: chị O không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về các khoản nợ chung: chị O xác nhận không có, không yêu cẩu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Dành quyền khởi kiện vụ án khác về phần tài sản chung và nợ chung cho anh Hà Quang L khi có yêu cầu.

5. Về án phí: Chị Lê Thị O phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị O đã nộp tại biên lai số AA/2018/0006392 ngày 30/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. chị O đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: chị O có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. anh L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 08/04/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:13/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;