TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 08/03/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 31/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2021 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST-DS ngày 08/02/2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thúy H, sinh năm 1995 (có mặt).
Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố H, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Hiện cư trú: Phố V, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
- Bị đơn: Anh Đỗ Văn C, sinh năm 1991 (có mặt).
Nơi cư trú: Tổ dân phố H, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Phạm Thúy H trình bày: Chị kết hôn với anh Đỗ Văn C ngày 29/02/2012, trước khi cưới có được tìm hiểu, tự nguyện thỏa thuận, đăng ký kết hôn tại UBND xã P nay là thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến đầu tháng 01/2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống và trong công việc làm ăn hằng ngày vợ chồng thường bất đồng quan điểm cãi chửi nhau, không bảo được nhau để cùng làm ăn phát triển kinh tế xây dựng hạnh phúc gia đình. Vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ ngày 12/01/2021. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.
Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Đỗ Hồng H1, sinh ngày 25/01/2013, Đỗ Đức C1, sinh ngày 18/3/2014 và Đỗ Minh Đ, sinh ngày 14/12/2017. Hiện cả ba con đang ở cùng anh C, các con khỏe mạnh và phát triển bình thường; nay ly hôn chị xin nuôi cả ba con; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con, còn việc anh C có quan tâm đến con hay không là quyền của anh C đối với con mình.
Về tài sản: Vợ chồng xin tự thỏa thuận, nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.
* Bị đơn anh Đỗ Văn C trình bày: Chị H trình bày về thời gian kết hôn và quá trình mâu thuẫn là đúng, nay xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn anh không đồng ý ly hôn chị H. Về con chung: Như chị H trình bày là đúng, nay nếu ly hôn anh xin nuôi cả ba con; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con, còn việc chị H có quan tâm đến con hay không là quyền của chị H đối với con mình. Về tài sản: Vợ chồng xin tự thỏa thuận, nên anh không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại phiên toà hôm nay chị H có mặt giữ nguyên yêu cầu trên và trình bày thêm, chị xin được nuôi con nhỏ là Đỗ Minh Đ, còn để anh C nuôi hai con lớn, hiện chị đang làm công nhân tại khu công nghiệp Vân Trung thu nhập bình quân khoảng 8.000.000đ/ tháng. Anh C có mặt trình bày thêm, nếu chị H để anh nuôi cả 3 con thì anh đồng ý ly hôn, còn nếu chị H không để anh nuôi cả 3 con thì anh không đồng ý ly hôn. Hiện anh đang làm công nhân tại Công ty Thống Nhất ở thị trấn Vôi thu nhập bình quân từ chín đến mười ba triệu đồng một tháng.
Phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của thẩm phán, thư ký, hội thẩm nhân dân, các đương sự trong suốt quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay chị H và anh C đều có mặt. Do vậy đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của pháp luật. Đề nghị xét xử cho chị H được ly hôn anh C; Về con chung: Giao chị H nuôi cháu Đ, còn để anh C nuôi cháu H1 và cháu C1; Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản: Cả chị H, anh C đều không đề nghị giải quyết, nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết; chị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ngoài ra còn đề nghị tuyên quyền kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, phạm vi khởi kiện, thẩm quyền giải quyết và thủ tục tố tụng: Tại đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Phạm Thúy H, sinh năm 1995; Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố H, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, hiện cư trú: Phố V, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang khởi kiện xin ly hôn với anh Đỗ Văn C, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Tổ dân phố H, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Nội dung: Chị H xin được ly hôn anh C, đề nghị Tòa án giải quyết về con chung, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản. Như vậy đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hôn nhân và gia đình, đề nghị xin được ly hôn, đề nghị giải quyết về con chung, không đề nghị giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.
Thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay chị H có mặt, anh C có mặt. Nên HĐXX áp dụng Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự tiếp tục xét xử vụ án theo pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thúy H kết hôn với anh Đỗ Văn C ngày 29/02/2012, trên cơ sở tự nguyện hợp pháp, đăng ký kết hôn tại UBND xã P nay là thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến tháng 01/2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến cãi nhau, không bảo ban được nhau để cùng làm ăn phát triển kinh tế, xây dựng hạnh phúc gia đình. Vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ tháng 01/2021. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn chị H thiết tha xin được ly hôn, phía anh C không đồng ý ly hôn, nhưng không có biện pháp dàn xếp, hàn gắn tình cảm vợ chồng. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã diễn ra căng thẳng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nguyện vọng xin được ly hôn của chị H là phù hợp quy định của pháp luật. Do vậy cần xử cho chị H được ly hôn anh C để giải phóng cho cả hai bên, xét là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2.2] Về nuôi con chung: Quá trình chung sống chị H và anh C sinh được 03 con chung là Đỗ Hồng H1, sinh ngày 25/01/2013, Đỗ Đức C1, sinh ngày 18/3/2014 và Đỗ Minh Đ, sinh ngày 14/12/2017. Hiện ba con đang ở cùng anh C, các con khỏe mạnh và phát triển bình thường. Nay ly hôn chị H xin nuôi cháu Đ, anh C xin được nuôi cả ba con; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. HĐXX xét thấy các bên có điều kiện nuôi con như nhau, tuy nhiên để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con trẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho chị H, anh C khi nuôi con, phù hợp nguyện vọng của con trẻ; nên cần giao chị H nuôi cháu Đ, còn để anh C nuôi cháu H1 và cháu C1; các bên được quyền thăm nom con sau khi đã ly hôn; Về cấp dưỡng nuôi con, cả chị H và anh C đều không đề nghị tòa án giải quyết. Nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết, xét là phù hợp Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2.3] Về chia tài sản: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay cả chị H và anh C đều không đề nghị Tòa án giải quyết. Nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết. Nếu sau này có sảy ra tranh chấp về tài sản, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
[2.4] Về án phí: Chị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp.
Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
* Áp dụng Điều 28; 35; 147; 227; 235; 264; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 26; 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thúy H được ly hôn anh Đỗ Văn C.
2/ Về con chung: Xử giao chị Phạm Thúy H nuôi con chung là Đỗ Minh Đ, sinh ngày 14/12/2017; anh Đỗ Văn C nuôi con chung là Đỗ Hồng H1, sinh ngày 25/01/2013; Đỗ Đức C1, sinh ngày 18/3/2014; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con; chị H, anh C được quyền thăm nom con sau khi đã ly hôn, không ai được cản trở chị H, anh C thực hiện quyền này.
3/ Về án phí: Chị Phạm Thúy H phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0002837 ngày 20/01/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Báo cho các đương sự có mặt biết, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Án xử sơ thẩm công khai./.
Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 08/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 13/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về