Bản án 13/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 13/2020/HS-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2020/TLST-HS ngày 11/03/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn K, sinh năm 1965;

ĐKHKTT và nơi ở: thôn H, xã H, huyện L, tỉnh B;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 7/10;

Họ tên bố: Nguyễn Văn S (đã chết);

Họ tên mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1935;

Gia đình có 06 chị em, bị cáo là thứ hai;

V: Nguyễn Thị N, sinh năm 1969 (đã ly hôn);

Con: có 02 con, lớn sinh năm 1990, nhỏ sinh năm 1992; Tiền án: 06.

+ Bản án số 135/2008/HSPT ngày 25/9/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn Văn K 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/12/2010.

+ Bản án số 16/2012/HSST ngày 28/3/2012 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn Văn K 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

+ Bản án số 40/2012/HSST ngày 24/5/2012 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn Văn K 13 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt của bản án số 16/2012/HSST ngày 28/3/2012 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, buộc K phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 37 tháng tù.

+ Bản án số 124/2012/HSST ngày 04/6/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn Văn K 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

+ Bản án số 27/2012/HSST ngày 09/7/2012 của Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt Nguyễn Văn K 24 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, cộng với hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2012/HSST ngày 24/5/2012 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt và tổng hợp buộc xử phạt bị cáo K là 37 tháng tù; Bản án số 124/2012/HSST ngày 04/6/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang đã xử phạt bị cáo K 15 tháng tù. Tổng hợp hình phạt chung bị cáo K phải chấp hành là 76 tháng tù.

+ Bản án số 67/2012/HSST ngày 27/8/2012 của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn Văn K 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản.

Quyết định số 01/2012/QĐ- CA ngày 12/11/2012 của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang tổng hợp bản án số 27 ngày 09/7/2012 của Tòa án dân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt K 76 tháng tù về tội trộm cắp tài sản và bản án số 67/2012/HSST của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, buộc Nguyễn Văn K phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 08 năm 04 tháng tù. K chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/01/2018.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang ( Có mặt tại phiên toà).

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn K: Bà Lê Thị Ngọc Lý - Luật sư, văn phòng Luật sư Phan Tiền & Cộng Sự - Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Giang ( Có mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh NLQ, sinh năm 1994 ( Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn H, xã B, huyện L, tỉnh B

* Người làm chứng:

1. Anh NLC1, sinh năm 1989 ( Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện L, tỉnh B

2 Anh NLC2, sinh năm 1994 ( Vắng mặt). Địa chỉ: Bản T, xã T, huyện B, tỉnh H.

* Người chứng kiến:

Ông NCK, sinh năm 1968 ( Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn H, xã H, L, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 02 giờ 30 phút ngày 27/10/2019, tổ công tác Công an huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang phối hợp cùng Công an xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang kiểm tra hành chính nhà ở của Nguyễn Văn K, sinh năm 1965 ở thôn H, xã H, huyện L, phát hiện trong nhà của K có: NLC1, sinh năm 1989 ở thôn H, xã H, huyện L; NLQ, sinh năm 1994 ở thôn H, xã B, huyện L, tỉnh B và NLC2, sinh năm 1994 ở Bản T, xã T, huyện B, tỉnh H đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và Nguyễn Văn K đang có mặt ở nhà. Tại đây, tổ công tác phát hiện thu giữ tại khay giấy cứng hình chữ nhật để trên mặt bàn uống nước nhà K: 01 bật lửa ga bằng nhựa màu đỏ, 02 dao tem đã qua sử dụng; 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt qua lửa, trên mảnh giấy có bám dính chất chất màu nâu đen, nghi là ma túy; 01 cục chất bột màu trắng nghi là ma túy Heroine, được niêm phong vào phong bì ký hiệu “QT1”; T khai nhận đây là ma túy Heroine của T vừa mua của K với giá 300.000 đồng chưa sử dụng hết và các dụng cụ T, M, Q vừa sử dụng ma túy.

Kiểm tra và thu giữ tại túi quần phía trước bên phải T đang mặc: 200.000 đồng, T khai là tiền mua ma túy còn thừa do K trả lại; thu tại túi quần phía trước bên trái của T: 01 mảnh giấy một mặt màu vàng, một mặt màu trắng có ghi “NL 14284303”.

Nguyễn Văn K tự giác lấy từ trong ngăn giữa của tủ trong nhà giao nộp: 01 túi ni lon màu đỏ, bên trong đựng 01 gói ni lon màu hồng, trong gói ni lon màu hồng có: 02 cục chất màu trắng cùng nhiều cục vụn màu trắng; 01 gói giấy màu trắng (loại giấy phong bì thư) bên trong đựng cục chất màu trắng, nghi là ma túy Heroine, được niêm phong vào hộp giấy ký hiệu “QT2”. K tự giác lấy 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và khai nhận đây là tiền vừa bán ma túy cho T mà có.

Tổ công tác niêm phong số tiền thu giữ của T, số tiền K giao nộp vào phong bì thư và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn K về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lạng Giang tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của Nguyễn Văn K, kết quả khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Kết luận giám định số 1696/KL- KTHS ngày 28/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

- Trong 01 (một) phong bì ký hiệu “QT1” đã được niêm phong gửi giám định:

+ Chất cục bột màu trắng đựng trong 01 (một) gói giấy bạc mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng là chất ma túy Heroine có khối lượng: 0,023 gam.

+ Chất màu nâu đen bám dính trên 01 (một) mảnh giấy bạc có hai mặt màu trắng bạc, lượng mẫu quá ít không đủ để giám định.

- 01 (một) hộp giấy dạng khối hình hộp chữ nhật có ký hiệu “QT2” đã được niêm phong gửi giám định: Trong 01 (một) gói ni lon màu hồng:

+ Chất cục bột màu trắng là chất ma túy Heroine, có khối lượng: 45,497 gam + Chất cục bột màu trắng đựng trong 01 (một) gói giấy (loại giấy phong bì thư) là chất ma túy Heroine, có khối lượng: 0,674 gam. (Tất cả số mẫu vật trên được đựng trong 01 (một) túi ni lon màu đỏ) Quá trình điều tra Nguyễn Văn K khai nhận về diễn biến hành vi phạm tội như sau: Khoảng tháng 10/2019, do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên K nảy sinh ý định đi mua ma túy về để bán kiếm lời. Ngày 21/10/2019, K làm thủ tục vay Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (Công ty tài chính FE Credit) số tiền 50 triệu đồng với mục đích để trả nợ và mua ma túy về bán kiếm lời. Ngày 25/10/2019, Công ty tài chính FE Credit chuyển số tiền 50 triệu đồng vào tài khoản của K tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Bắc Giang- Phòng giao dịch Lạng Giang. Sau khi có tiền trong tài khoản, K đã rút 36 triệu đồng để trả nợ và mua ma túy về bán. Khoảng 09 giờ ngày 26/10/2019, K đi xe khách từ thị trấn Kép, huyện Lạng Giang lên Ngã ba Xuân Giao, thuộc địa phận tỉnh Lào Cai. Đến nơi, K nhờ một người lái xe ôm không quen biết đưa đi mua ma túy Heroine, người lái xe ôm đồng ý và chở K đến một vùng núi cách ngã ba Xuân Giao khoảng 30-40 km. Tại đây, K gặp một người phụ nữ khoảng 40 tuổi đi từ phía trên đồi xuống, K đưa cho người phụ nữ này 26 triệu đồng để mua ma túy Heroine, người phụ nữ cầm tiền và đưa lại cho K một túi ni lon màu hồng, bên trong đựng các cục chất màu trắng. K cầm số ma túy mua được, đi xe ôm về khu vực ngã ba Xuân Giao rồi đi xe khách về nhà. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày K về đến nhà, K cho số ma túy mua được vào một túi ni lon màu đỏ rồi cất vào trong tủ.

Khoảng 02 giờ ngày 27/10/2019, K đang ở nhà thì có NLC1 cùng NLQ, NLC2 đến. Tại nhà K, T đặt vấn đề mua 300.000 đồng ma túy Heroine, K đồng ý và lấy từ túi ni lon đựng ma túy trong tủ một cục ma túy Heroine, bẻ một ít để vào khay giấy trên bàn uống nước, cục ma túy còn lại K gói vào một mảnh giấy (loại giấy phong bì thư) rồi cất lại vào trong tủ. Khi K để ma túy ra khay, T đưa cho K một tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, K cầm tiền và đi lấy 200.000 đồng trả lại cho T. Trong lúc K đi lấy tiền trả lại, T cùng với Q, M lấy một ít ma túy vừa mua được của K cùng nhau sử dụng. K quay lại đưa cho T 200.000 đồng, khi T vừa cầm tiền thì có lực lượng Công an vào kiểm tra hành chính, K đã tự giác giao nộp số ma túy còn lại và số tiền vừa bán ma túy cho T.

Bản cáo trạng số: 13/CT-VKS-P1 ngày 10/03/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Văn K đã khai nhận hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã truy tố, nhưng cho rằng số lượng ma tuý Heroine bị cáo mua chỉ có 37.5gam, không phải như bản cáo trạng truy tố số lượng ma tuý mua bán trái phép là 46,194 gam. Nhưng bị cáo không có chứng cứ để chứng minh.

Qua thẩm vấn tại phiên toà, kiểm sát viên phát biểu lời luận tội vẫn giữ nguyên cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s, khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 17 năm đến 18 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Miễn hình phạt bổ sung Về xử lý vật chứng và tài sản: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

* Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) khay giấy cứng hình chữ nhật màu trắng, mặt ngoài của khay có chữ “Công ty CP bánh mứt kẹo Hoàng Minh màu đỏ”; 01 (một) phong bì ký hiệu “QT1”, được đóng dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang và chũ ký cùng tên của Hoàng Xuân Pvà Ngô Bá H, bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 (một) hộp giấy hình hộp chữ nhật ký hiệu “QT2” được dán niêm phong bằng dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang và chữ ký cùng tên của Hoàng Xuân Pvà Ngô Bá H, bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 (một) mảnh giấy một mặt màu vàng, một mặt màu trắng có ghi dòng chữ và số “NL14284303” và 02 (hai) dao tem đã qua sử dụng;

* Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước: 300.000 đồng là tiền của bị cáo do bán ma túy mà có.

* Trả lại bị cáo Nguyễn Văn K: 200.000 đồng nhưng tạm giữ số tiền để đảm bảo thi hành án. Trả lại NLQ: số tiền 200.000 đồng.

Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Khoản 1 Điều 23 nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Quốc hội buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Luật sư Lê Thị Ngọc Lý bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn K phát biểu luận cứ: Bản cáo trạng và Luận tội của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang truy tố và Luận tội bị cáo tại phiên toà về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” là có căn cứ. Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, tuy nhiên số lượng ma tuý bị cáo mua bán không lớn, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có thời gian tham gia quân đội 3 năm hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương. Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 17 đến 18 năm tù là có phần nghiêm khắc, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng hình phạt phù hợp tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

Bị cáo Nguyễn Văn K nhất trí như lời bào chữa của Luật sư không tranh luận gì thêm.

Kiểm sát viên đối đáp: Bị cáo Nguyễn Văn K có 6 tiền án, thực hiện hành vi phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phtieem, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm đề nghị xử phạt bị cáo K từ 17 đến 18 năm tù là phù hợp, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

Các bên không ai tranh luận gì thêm, vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.

Li nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Văn K: Bị cáo có điều kiện hoàn cảnh khó khăn đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố xét xử: Kể từ khi khởi tố vụ án hình sự, trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án, HĐXX thấy Điều tra viên, Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa cho bị cáo đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm, Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa cho bị cáo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, không có hành vi, quyết định tố tụng nào vi phạm tố tụng.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên những người này đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng theo khoản 1 Điều 292 và khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[3] Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Văn K đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, người làm chứng, phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy đã có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 02 giờ 30 phút ngày 27/10/2019, tổ công tác Công an huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang phối hợp với Công an xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang phát hiện bắt quả tang tại nhà Nguyễn Văn K, sinh năm 1965 ở thôn H, xã H, huyện L, K có hành vi bán trái phép 0, 023 gam ma túy Heroine cho NLQ, sinh năm 1994 ở thôn Hồ Lương, xã Bảo Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang với giá 300.000 đồng. Ngay sau đó, Nguyễn Văn K tự giao nộp 46,171 gam ma túy Heroine do K cất giấu nhằm mục đích bán kiếm lời. Tổng khối lượng ma túy Nguyễn Văn K mua bán trái phép là 46,194 gam Heroine.

Bn Cáo trạng số: 13/CT-VKS-P1 ngày 10/03/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang và bản luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tại phiên tòa đã truy tố luận tội bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự, là đúng người, đúng tội và không oan đối với bị cáo.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn K là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến việc độc quyền quản lý của nhà nước đối với các chất về ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó nó còn là nguyên nhân và điều kiện phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, việc xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự đối với bị cáo là cần thiết.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Nguyễn Văn K thì thy:

- Về tình tiết tăng nặng TNHS: Lần phạm tội này của bị cáo K thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có thời gian tham gia quân đội từ năm 1985 đến năm 1988 xuất ngũ, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian dài có như vậy mới tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, đảm bảo phòng ngừa chung và phục vụ cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma tuý trong giai đoạn hiện nay. Tại phiên toà Lụât sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình phạt phù hợp với hành vi của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy số lượng bị cáo mua bán ma tuý không lớn, bị cáo khai báo thành khẩn ăn năn hối cái, có thời gian tham gia quân đội. Do vậy, chấp nhận lời bào chữa của Luật sư giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Văn K không thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo nên cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 BLHS.

Đối với người lái xe ôm và người phụ nữ bán ma túy cho K, do K khai không biết tên, tuổi địa chỉ nên Cơ quan điều tra không xác định được, nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với NLC1, NLC2 là người đi cùng T đến nhà K nhưng không biết mục đích T đến để mua ma túy, khi thấy T sử dụng ma túy đã cùng sử dụng. Hành vi mua ma túy của T để sử dụng nhưng lượng ma túy thu được chưa đủ định lượng để xử lý hình sự nên ngày 13/02/2020, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bắc Giang đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Q, M, T về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Việc Q, T, M sử dụng ma túy tại nhà K, nhưng K không biết nên không xem xét xử lý K về hành vi này là có căn cứ.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) phong bì ký hiệu “QT1”, được đóng dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang và chũ ký cùng tên của Hoàng Xuân P và Ngô Bá H, bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 (một) hộp giấy hình hộp chữ nhật ký hiệu “QT2” được dán niêm phong bằng dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang và chữ ký cùng tên của Hoàng Xuân Pvà Ngô Bá H, bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 (một) khay giấy cứng hình chữ nhật màu trắng, mặt ngoài của khay có chữ “Công ty CP bánh mứt kẹo Hoàng Minh màu đỏ”; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 (một) mảnh giấy một mặt màu vàng, một mặt màu trắng có ghi dòng chữ và số “NL14284303”; 02 (hai) dao tem đã qua sử dụng. Xét thấy đây là chất ma tuý cấm lưu hành do nhà nước độc quyền quản lý và những vật chứng liên quan đến vụ án không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với số tiền 700.000 đồng (Bẩy trăm nghìn đồng), được gửi tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Bắc Giang. Xét thấy đây là số tiền thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn K 500.000đồng và người liên quan NLQ 200.000đồng là tiền mua bán ma tuý mà có nên sẽ tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, bị cáo Nguyễn Văn K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Điều 21, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 16 ( Mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 27/10/2019.

Phạt bổ sung 5.000.000đồng ( Năm triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

[2] Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì ký hiệu “QT1”, được đóng dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang và chũ ký cùng tên của Hoàng Xuân Pvà Ngô Bá H, bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 hộp giấy hình hộp chữ nhật ký hiệu “QT2” được dán niêm phong bằng dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang và chữ ký cùng tên của Hoàng Xuân P và Ngô Bá H, bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 khay giấy cứng hình chữ nhật màu trắng, mặt ngoài của khay có chữ “Công ty CP bánh mứt kẹo Hoàng Minh màu đỏ”;

01 bật lửa ga màu đỏ; 01 (một) mảnh giấy một mặt màu vàng, một mặt màu trắng có ghi dòng chữ và số “NL14284303”; 02 (hai) dao tem đã qua sử dụng.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 700.000 đồng (Bẩy trăm nghìn đồng), thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn K và người liên quan NLQ.

[3] Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn K phải chịu 200.000 đồng ( Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;