Bản án 13/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÌNH LẬP, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 13/2020/HS-ST NGÀY 22/10/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân T, sinh ngày 14 tháng 5 năm 1971 tại xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lái xe; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 7/10; Con ông: Nguyễn Đức Đ và bà Phạm Thị C; vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1974; con: Có 02 con; tiền án; tiền sự: Không có; nhân thân: Không bị kết án, không bị xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Bị hại: Anh Hoàng Văn P, sinh năm 1985. Địa chỉ: thôn B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Xuân T là công nhân lái máy đào xới đất đồi cho Công ty Đ để trồng cây tại khu đồi T, thuộc thôn B, xã K, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 29/6/2020. Khoảng 15 giờ ngày 10/9/2020, Nguyễn Xuân T một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu sơn Trắng - Đen - Bạc, biển kiểm soát 98B3 - 004.76 đi từ lán của công nhân tại khu đồi T xuống thị trấn Đình Lập để giải quyết công việc cá nhân. Khoảng 17 giờ, Nguyễn Xuân T đi từ thị trấn Đình Lập để về lán trọ, khoảng 18 giờ 20 phút cùng ngày khi về đến khu vực cách lán ở khoảng 03km, Nguyễn Xuân T nhìn thấy một chiếc máy đào nhãn hiệu DOOSAN DX140WA của anh Hoàng Văn P, sinh ngày 23/10/1985, trú tại thôn B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn để ở trên đồi cạnh đường. Thấy máy đào để ở chỗ vắng, không có người trông coi, Nguyễn Xuân T nảy sinh ý định lấy trộm hộp đen của chiếc máy đào để thay vào hộp đen máy đào của mình. Nguyễn Xuân T dừng xe mô tô, rồi trèo lên đồi chỗ để máy đào, dùng chìa khóa máy đào của mình mang theo để mở cửa cabin, nhưng không có dụng cụ gì để mở nắp nhựa hộp đen nên đóng cửa cabin lại, dùng xe mô tô đi về lán để lấy dụng cụ mở nắp nhựa hộp đen. Khi điều khiển xe máy đi được khoảng 10m Nguyễn Xuân T lại quay xe lại vị trí ban đầu, đi lên chỗ máy đào, dùng chìa khóa máy đào của mình mở cốp đựng đồ của chiếc máy đào DOOSAN DX140WA lấy được 03 chiếc cờ lê cỡ 10, 16, 17 rồi trèo lên ca bin, tại cabin Nguyễn Xuân T bật lẫy ghế lái ngả về phía trước rồi dùng chiếc cờ lê cỡ 10 vặn ốc nắp nhựa hộp đen, sau khi mở được nắp nhựa hộp đen tiếp tục dùng cà lê cỡ 17 vặn 04 chiếc ốc cố định tại hộp đen, vặn ốc xong Nguyễn Xuân T dùng tay trái tháo chốt khuy giữ hộp đen và tháo 05 giắc cắm của hộp đen, sau khi lấy hộp đen xong thì đậy nắp nhựa lại và đóng cửa cabin. Nguyễn Xuân T cầm hộp đen và 02 chiếc cờ lê cỡ 10 và 17 mang đi còn chiếc cờ lê cỡ 16 để lại trong ca bin. Sau đó dùng 01 mảnh vải màu xanh nhạt đã cũ ở trong cốp xe mô tô bọc chiếc hộp đen rồi đặt hộp đen lên giá để hàng phía trước xe mô tô, còn hai chiếc cờ lê cầm trên tay rồi lái xe đi về lán ở. Đi được khoảng 30m Nguyễn Xuân T ném hai chiếc cờ lê cỡ 10 và 17 vào bụi cỏ phía bên trái cách chỗ lấy hộp đen khoảng 30m. Chiếc hộp đen thì đem giấu vào rừng tre cạnh đường bên phải cách chỗ lấy khoảng 400m. Khoảng 19 giờ cùng ngày Nguyễn Xuân T đi về đến lán ở của mình. Khoảng 08 giờ ngày 12/9/2020, do sợ trời mưa làm hỏng hộp đen, Nguyễn Xuân T cầm 01 chiếc túi nilon màu đen, dài 65cm, rộng 38cm đi ra chỗ giấu hộp đen, cho hộp đen vào bên trong túi nilon rồi để ở vị trí cũ. Đến ngày 14/9/2020, Nguyễn Xuân T nhận thấy hành vi trộm cắp chiếc hộp đen là vi phạm pháp luật nên đã mang chiếc hộp đen trộm cắp được đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn để tự thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 15/KL- HĐĐGTS ngày 15/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chiếc hộp đen có ký hiệu e – EPOS CONTROLLER, Model DX140WE được lắp cho máy bánh lốp DooSan mã kiểu loại DX140WA có giá là 19.000.000 đồng (mười chín triệu đồng).

Tại bản Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKSĐL ngày 07/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân T có hành vi phạm tội và lý lịch nêu trên ra trước Toà án nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn để xét xử về tội về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Bị hại anh Hoàng Văn P xác nhận đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội trộm cắp tài sản.

- Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T từ 06 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận bồi thường nên không đề cập xem xét.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 túi nilon màu đen, dài 65cm, rộng 38cm; 01 mảnh vải màu xanh nhạt đã cũ, bẩn dài 95cm, rộng 45cm; 01 chìa khóa, dài 6cm, trên khóa in dòng chữ “TOYOTA”.

Trả lại cho anh Hoàng Văn P 01 cờ lê cỡ 10, dài 14,5cm, một mặt có in dòng chữ “CHROM VANA DIUM”; 01 cờ lê cỡ 16, dài 20cm, một mặt có in dòng chữ “CHROM VANA DIUM”, một mặt in dòng chữ “YETI USA Standard”; 01 cờ lê cỡ 17, dài 21cm, một mặt có in dòng chữ “CHROM VANA DIUM”, một mặt in dòng chữ “YETI USA Standard”;

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Xuân T 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu sơn Trắng – Đen – Bạc, biển kiểm soát 98B3-00476, số khung 1257FY309502; số máy HC12E7309443 xe cũ đã qua sử dụng, xe không có gương chiếu hậu bên phải;

01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 121738 mang tên Nguyễn Đức M, sinh năm 1999, địa chỉ: Tổ P, D, thành phố Bắc Giang.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tố tụng: Anh Hoàng Văn P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt của anh Hoàng Văn P không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt anh Hoàng Văn P.

[3] Chứng cứ xác định bị cáo có tội: Khoảng 18 giờ 20 phút ngày 10/9/2020, tại đoạn đường thôn B, xã K, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn. Lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản, Nguyễn Xuân T đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc hộp đen của máy đào bánh lốp nhãn hiệu DOOSAN DX140WA của anh Hoàng Văn P, tài sản bị cáo trộm cắp qua định giá xác định có giá trị 19.000.000 đồng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội "Trộm cắp tài sản" tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo Nguyễn Xuân T về tội "Trộm cắp tài sản" là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng, hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi của bị cáo gây ra phải được xử lý trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Để có mức án phù hợp ngoài việc xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đến Cơ quan điều tra tự thú về hành vi của mình; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả theo yêu cầu của bị hại số tiền là 20.000.000 đồng; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản đã được thu hồi và trả cho bị hại. Gia đình có anh trai ruột là ông Nguyễn Đức Đ là liệt sỹ được Nhà nước tặng bằng Tổ quốc ghi công và Huân chương chiến công hạng Ba. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, h, i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[9] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo lao động theo thời vụ, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Sau khi sự việc xảy ra giữa bị cáo và bị hại đã thỏa thuận bồi thường, bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về xử lý vật chứng: 01 túi nilon màu đen, dài 65cm, rộng 38cm; 01 mảnh vải màu xanh nhạt đã cũ, bẩn dài 95cm, rộng 45cm; 01 chìa khóa, dài 6cm, trên khóa in dòng chữ “TOYOTA” là những công cụ liên quan đến hành vi phạm tội, không có giá trị sử dụng nên tịch thu để tiêu hủy. Đối với 01 cờ lê cỡ 10, dài 14,5cm, một mặt có in dòng chữ “CHROM VANA DIUM”; 01 cờ lê cỡ 16, dài 20cm, một mặt có in dòng chữ “CHROM VANA DIUM”, một mặt in dòng chữ “YETI USA Standard”; 01 cờ lê cỡ 17, dài 21cm, một mặt có in dòng chữ “CHROM VANA DIUM”, một mặt in dòng chữ “YETI USA Standard” là của anh Hoàng Văn P nên cần trả lại cho chủ sở hữu. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu sơn Trắng – Đen – Bạc, biển kiểm soát 98B3-00476, số khung 1257FY309502; số máy HC12E7309443 xe cũ đã qua sử dụng, xe không có gương chiếu hậu bên phải và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 121738 mang tên Nguyễn Đức M, sinh năm 1999, địa chỉ: Tổ P, D, thành phố Bắc Giang. Đây là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Nguyễn Xuân T.

[12] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, mức hình phạt và các nội dung khác của vụ án là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

[13] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

[14] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm a, khoản 1 Điều 47; điểm b, h, i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ vào điểm a, khoản 1 Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (22/10/2020).

Giao bị cáo Nguyễn Xuân T cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 túi nilon màu đen, dài 65cm, rộng 38cm; 01 mảnh vải màu xanh nhạt đã cũ, bẩn dài 95cm, rộng 45cm; 01 chìa khóa, dài 6cm, trên khóa in dòng chữ “TOYOTA”. Trả lại cho anh Hoàng Văn P 01 cờ lê cỡ 10, dài 14,5cm, một mặt có in dòng chữ “CHROM VANA DIUM”; 01 cờ lê cỡ 16, dài 20cm, một mặt có in dòng chữ “CHROM VANA DIUM”, một mặt in dòng chữ “YETI USA Standard”; 01 cờ lê cỡ 17, dài 21cm, một mặt có in dòng chữ “CHROM VANA DIUM”, một mặt in dòng chữ “YETI USA Standard”. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Xuân T 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu sơn Trắng – Đen – Bạc, biển kiểm soát 98B3-00476, số khung 1257FY309502; số máy HC12E7309443, xe cũ đã qua sử dụng, xe không có gương chiếu hậu bên phải; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 121738 mang tên Nguyễn Đức M, sinh năm 1999, địa chỉ: Tổ P, D, thành phố Bắc Giang.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07 tháng 10 năm 2020) 4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Xuân T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đình Lập - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;