Bản án 13/2020/HS-ST ngày 17/03/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 13/2020/HS-ST NGÀY 17/03/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 17/3/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị (Địa chỉ: Số 45 Lê Lợi, thành phố Đông Hà), xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2020/HSST, ngày 21/01/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXXST-HS ngày 28/02/2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân B, sinh ngày 24/4/1979, tại Quảng Trị; Nơi cư trú: Khu phố B, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Nghề nghiệp: Nhạc công; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Xuân T (Tỉ), sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1959, có vợ là chị Võ Thị T, sinh năm 1985 và có 03 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 08/11/2019 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1954; Địa chỉ: Khu phố N, Phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị.

Đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Bùi Minh T, sinh năm 1975; Địa chỉ: Khu phố B, Phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị Trị (Văn bản ủy quyền đề ngày 08/12/2019), vắng mặt.

* Người làm chứng:

- Nguyễn Quang M, sinh năm: 2007; Địa chỉ: Khu phố N, Phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

Đại diện hợp pháp của Nguyễn Quang M: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm:

1976; Địa chỉ: Khu phố N, Phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị (Bố cháu M), vắng mặt.

- Anh Hoàng Văn P, sinh năm: 1996; Địa chỉ: Số 387 đường Q, Khu phố N, Phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1978; Địa chỉ: Số 393 đường Q, Khu phố N, Phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

- Anh Võ Sỹ T, sinh năm: 1973; Địa chỉ: Khu phố B, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

- Anh Trần Minh Đ, sinh năm: 1985; Địa chỉ: Khu phố M, phường ĐL, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

- Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm: 1982; Địa chỉ: Khu phố S, Phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

- Chị Võ Thị T, sinh năm: 1985; Địa chỉ: Khu phố B, Phường X, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 30 phút ngày 25/08/2019, Nguyễn Xuân B điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 74H4- 2678 (Sau đây viết tắt là: xe mô tô) lưu thông trên Quốc lộ 9, hướng Đông Hà đi Cam Lộ. Khi đến đoạn đường trước số nhà 389 Quốc Lộ 9, B thấy bà Nguyễn Thị S, trú tại Khu phố N, Phường B, thành phố Đ, đi bộ qua đường từ trái sang phải theo hướng Đông Hà đi Cam Lộ. Với ý thức chủ quan “Bà S sẽ dừng lại để nhường đường” nên B không giảm tốc độ và tiếp tục điều khiển xe đi thẳng dẫn đến xe mô tô va chạm với bà S. Hậu quả: Bà Nguyễn Thị S bị thương, phải điều trị tại bệnh viện từ ngày 25/8 đến ngày 27/9/2019.

* Kết quả khám nghiệm hiện trường, xác định:

Nơi xảy ra tai nạn giao thông là đường Quốc lộ 9, thuộc địa phận Khu phố 5, Phường 3, thành phố Đông Hà (trước nhà số 389), đoạn đường này thẳng, trải nhựa phẳng, không bị che khuất tầm nhìn, đèn đường đã được bật. Mặt đường rộng 14,30 mét được chia thành 02 phần đường riêng biệt bằng vặch kẻ đường đứt khúc.

Lấy hướng đi từ Đông Hà - Cam Lộ trên đường Quốc lộ 9 làm hướng khám nghiệm; Lấy trụ đèn chiếu sáng số 50, bên phải theo hướng khám nghiệm làm điểm mốc; Lấy mép đường bên phải Quốc lộ 9 theo hướng khám nghiệm làm chuẩn, phần đường khám nghiệm rộng 7,4 mét. Hiện trường để lại các dấu vết:

- 01 chiếc dép màu đen (Đánh số 1): Dài: 23cm, rộng 10 cm nằm úp xuống mặt đường, tâm (1) cách mép đường chuẩn 4,6 mét, cách điểm chuẩn 13,1 mét.

- Vết dịch máu đỏ (Đánh số 2): Kích thước 20cm x 15cm, tâm (2) cách mép chuẩn 3,46 mét và cách tâm (1) 1,3 mét.

- Vết cày (Đánh số 3): Dài 1 mét-hướng song song với mép chuẩn, điểm đầu (3) cách mép chuẩn 5,2 mét và cách tâm (1) 2,28 mét, điểm cuối (3) cách mép chuẩn 5,36 mét.

- Vết cày không liên tục (Đánh số 4): Dài 1,8 mét (theo hướng khám nghiệm), điểm đầu (4) cách mép chuẩn 6,53 mét và cách điểm cuối (3) 2,77 mét, điểm cuối (4) cách mép chuẩn 7,40 mét.

- Xe mô tô nằm ngã nghiêng bên trái, đuôi xe quay về hướng mép đường chuẩn, điểm trục trước xe mô tô cách mép đường chuẩn 8,06 mét, điểm trục sau xe mô tô cách mép đường chuẩn 7 mét, * Kết quả khám nghiệm phương tiện (Xe mô tô):

- Mặt ngoài ống phuộc trước bên phải có dấu vết sạch bụi bẩn, kích thước 20cm x 3cm hướng từ trước ra sau.

- Mặt ngoài ốp vai phuộc trước bên phải phía dưới có dấu vết trầy xước nhựa sạch bụi, kích thước 4cm x 12cm hướng từ trước ra sau.

- Mặt trước cánh mang phải phía trên (phần tiếp giáp mặt nạ phải) có dấu vết trầy xước, nứt võ nhựa, kích thước 14cm x 12cm hướng từ trước ra sau.

- Bên phải mặt ốp đèn tín hiệu phải có dấu vết trầy xước mặt nhựa in dạng hoa văn vải sợi, kích thước 8cm x 2cm hướng từ trước ra sau.

- Mặt ngoài trước cánh mang phải có dấu vết trầy xước bám dính dạng hoa văn vải sợi màu tím, kích thước 2,5cm x 1cm hướng từ trước ra sau-từ trên xuống dưới.

- Mặt ngoài ốp nhựa trước bên phải ghi đông có dấu vết trầy xước nhựa, kích thước 5cm x 0,5cm.

- Đầu mút tay phanh bên phải có dấu vết trầy xước sáng kim loại, kích thước 3,5cm x 2cm.

- Kỷ thuật an toàn phương tiện: Bình thường.

* Kết luận giám định vị trí va chạm:

Tại Kết luận số 693/KLGĐ-PC09 ngày 30/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận:

- Vị trí va chạm đầu tiên giữa xe môtô và người đi bộ là: Phần trước bên phải đầu xe mô tô gồm các vị trí: Ốp nhựa đèn tín hiệu, cánh mang va chạm với mặt sau thân váy áo bà Nguyễn Thị S mặc khi lưu thông trên đường.

- Xe mô tô tác động vào phía sau lưng bà Nguyễn Thị S.

- Vị trí va chạm đầu tiên giữa xe mô tô và người đi bộ trên hiện trường là: Khu vực hình thành dấu vết số (1), (2) trên phần đường theo chiều đi từ Đông Hà đến Cam Lộ.

* Kết luận giám định pháp y:

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 185/TgT ngày 25/10/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Trị kết luận: Bà Nguyễn Thị S bị khuyết xương thái dương đỉnh trái đáy phập phồng đường kính 10 cm (phẩu thuật); Tụ máu dưới màng cứng; Xuất huyết dưới nhện; Gãy xương đá; Ổ dập não xuất huyết tiểu não phải, trán phải; Cấu trúc đường giữa di lệch nhẹ sang phải; Sẹo phần mềm vùng đầu, sẹo mờ khí quản. Tỷ lệ tổn thương cơ thể của bà Nguyễn Thị S do thương tích gây nên là 82%.

Cáo trạng số 10/CT-VKS-ĐH ngày 21/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố Nguyễn Xuân B về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm b khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát: Giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân B phạm tội: "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hoạt động tố tụng: Quá trình điều tra- Truy tố, Cơ quan tiến hành tố tụng- Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra, truy tố; Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, bị cáo Trần Nguyên Tuấn không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với Cơ quan tiến hành tố tụng- Người tiến hành tố tụng.

[2] Nội dung vụ án:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 25/08/2019, bị cáo B (Có Giấy phép lái xe hợp lệ) điều khiển xe môtô lưu thông trên Quốc lộ 9, hướng Đông Hà đi Cam Lộ. Khi đến đoạn đường trước số nhà 389 Quốc Lộ 9, B thấy bà Nguyễn Thị S, trú tại Khu phố N, Phường B, thành phố Đ, đi bộ qua đường từ trái sang phải theo hướng Đông Hà đi Cam Lộ, cách xe mô tô do B đang điều khiển khoảng 25 mét. Với ý thức chủ quan “Bà S sẽ dừng lại để nhường đường” nên B không giảm tốc độ và tiếp tục điều khiển xe đi thẳng. Khi khoảng cách giữa xe mô tô do B điều khiển đến bà S chỉ còn 02 đến 03 mét, B điều khiển xe chuyển hướng sang trái đồng thời phanh xe gấp nhưng do khoảng cách quá gần nên B không thể điều khiển xe mô tô tránh bà S được dẫn đến tai nạn xảy ra. Hậu quả: Bà Nguyễn Thị S bị thương, phải điều trị tại bệnh viện từ ngày 25/8 đến ngày 27/9/2019.

Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, đó là: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông (xe mô tô); Kết luận giám định vị trí va chạm; Lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố cũng như lời khai của người làm chứng. Vì vậy, đủ cơ sở kết luận: Hành vi điều khiển xe mô tô trong khu vực đông dân cư và có người đi bộ qua đường nhưng thiếu quan sát, không giảm tốc độ theo quy định của Nguyễn Xuân B đã vi phạm khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ được hướng dẫn tại khoản 5, 6 Điều 5 Thông số 91/2015/TT-BGT ngày 31/12/2015 của Bộ Giao thông vận tải, gây hậu quả: Bà Nguyễn Thị S bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên 82% nên Nguyễn Xuân B đã phạm vào tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo điểm b khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự và an toàn công cộng, gây mối lo ngại cho mọi người khi tham gia giao thông trên các tuyến đường thuộc thành phố Đông Hà nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội do mình gây ra; Tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại; Gia đình bị cáo có công với nước, cụ thể: Bố của bị cáo được tặng thưởng “Huân chương kháng chiến hạng 3” nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra, bị cáo phạm tội lần đầu và được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Có nhân thân tốt, có nơi cư trú cụ thể rõ ràng và ổn định; Có khả năng tự cải tạo và việc không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là không gây nguy hiểm cho xã hội; Không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên cần áp dụng thêm khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo là có căn cứ.

[2] Về trách nhiệm dân sự: Nguyễn Xuân B và đại diện hợp pháp của bị hại đã tự thỏa thuận về mức bồi thường (100.000.000 đồng), B đã thực hiện xong; Bị hại không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về vật chứng:

- Xe môtô biển kiểm soát 74H4- 2678 thuộc quyền sở hữu của Nguyễn Xuân B; Nghĩa vụ dân sự đã được các bên tự thỏa thuận và thực hiện xong nên cần trả lại cho B.

- Đối với Giấy phép lái xe số 450120002691 do Sở giao thông tỉnh Quảng Trị cấp ngày 21/10/2016, mang tên Nguyễn Xuân B là tài liệu có liên quan trong vụ án, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung nên cần trả lại cho B.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân B, phạm tội: "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ".

1. Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt, Nguyễn Xuân B 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 17/3/2020.

Giao bị cáo Nguyễn Xuân B cho Ủy ban nhân dân Phường 4, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Trường hợp bị cáo Nguyễn Xuân B thay đổi nơi làm việc thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Nguyễn Xuân B cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo B phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả lại cho Nguyễn Xuân B: 01 xe môtô hiệu Yamaha Sirius, màu đen-vàng- bạc, số khung: C6409Y130880, số máy: 5C64-130874, biển kiểm soát 74H4- 2678.

Vật chứng hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/02/2020, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Buộc bị cáo Nguyễn Xuân B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2020/HS-ST ngày 17/03/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:13/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;