TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 13/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/04/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ T VÀ ANH T1
Ngày 21 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 398/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2020/QĐXX-ST ngày 05 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thanh T, sinh năm: 1986; địa chỉ: xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long;
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng T1, sinh năm: 1982; địa chỉ: Phường A, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long; (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/10/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Trần Thị Thanh T trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Hoàng T1 tự tìm hiểu rồi tiến đến hôn nhân và đăng ký kết hôn ngày 20/11/2014 tại Ủy ban nhân dân Phường A, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. Chị và anh T1 sống hạnh phúc khoảng hai năm thì phát sinh mâu thuẫn vợ chồng do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh T1 không nghề nghiệp, không lo làm ăn, suốt ngày chỉ thích cờ bạc, ăn nhậu, bỏ bê gia đình vợ con không lo lắng. Chị đã nhiều lần khuyên răn và cho cơ hội sửa đổi nhung anh T1 không thay đổi được gì và ngày càng quá đáng, Chị và anh T1 ly thân hơn năm tháng nay, Chị và hai con đã dọn về nhà cha mẹ một để sinh sống. Nay, cuộc sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn không thể hàn gắn được, tình cảm vợ chồng không còn nên chị T yêu cầu giải quyết cho Chị được ly hôn anh T1. Về con chung: Chị và anh T1 có hai con chung là Nguyễn Thái K, sinh ngày 28/10/2014 và Nguyễn A, sinh ngày 11/4/2017, hiện nay Chị đang nuôi dưỡng và yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ/con. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung: Chị T khai trong thời kỳ hôn nhân đến thời điểm ly hôn Chị và anh T1 không có nợ chung. Tại phiên tòa chị T xin thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ/con bởi hiện tại anh T1 cũng không có thu nhập ổn định, đều đặn nên khó thực hiện được ở mức cấp dưỡng 2.000.000đ/con.
*Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải theo đúng thủ tục tố tụng nhưng anh T1 vắng mặt không có lý do dù đã được Tòa án tống đạt thủ tục tố tụng hợp lệ theo quy định của pháp luật. Do đó, anh T1 không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; vụ án không tiến hành hòa giải được. Tại phiên tòa anh T1 vắng mặt đến lần thứ hai.
* Tại phiên tòa sơ thẩm đương sự không xuất trình chứng cứ nào mới.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Trần Thị Thanh T khởi kiện yêu cầu xin ly hôn, anh Nguyễn Hoàng T1 vắng mặt suốt quá trình giải quyết. Do đó, đây là vụ án tranh chấp ly hôn được quy định tại Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 36, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long.
Anh T1 vắng mặt tại phiên tòa đến lần hai, theo quy định tại Điều 227, 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T1.
Hiện nay, chị T và anh T1 đã ly thân, sau khi phát sinh mâu thuẫn vợ chồng Anh, Chị không có yêu cầu Cơ quan quản lý Nhà nước về công tác gia đình tại địa phương hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp của Anh, Chị; con chung dưới 07 tuổi. Chị T xác định rõ nguyên nhân phát sinh tranh chấp của mình trong hôn nhân do bất đồng quan điểm sống, anh T1 bỏ bê không chăm lo kinh tế gia đình, lại cờ bạc, ăn nhậu, Chị đã nhiều lần khuyên răn và cho cơ hội sửa đổi nhưng anh T1 không thay đổi được gì; anh T1 không có ý kiến gì phản đối yêu cầu xin ly hôn của chị T. Do đó, việc thu thập tài liệu, chứng cứ lấy ý kiến tại địa phương để tham khảo là không cần thiết.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: Trong quá trình giải quyết chị T đã xác định được nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn vợ chồng, Chị và anh T1 có thời gian sống ly thân nhau, chị T xin ly hôn anh T1 đã biết nhưng không đến Tòa để giải quyết, cũng không tìm chị T để hòa giải mâu thuẫn vợ chồng, thăm nom các con, từ đó cho thấy anh T1 cũng không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị T nên Chị kiên quyết giữ quan điểm ly hôn vì mâu thuẫn không thể hàn gắn, đoàn tụ được. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng các điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T đối với anh T1.
[2.2] Về con chung: Chị T yêu cầu nuôi hai con chung là Nguyễn Thái K và Nguyễn A, trong thời gian sống ly thân chị T vẫn tiếp tục nuôi dưỡng hai con, anh T1 không thăm nom cũng không góp tiền nuôi dưỡng, chị T yêu cầu nuôi dưỡng hai con đến tuổi đủ 18 tuổi anh T1 cũng không có ý kiến gì phản đối nên Hội đồng xét xử giao cả hai con cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi hai con chung chị T biết hiện nay anh T1 không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập hàng tháng không cao; thu nhập của chị T không thể đảm bảo tốt đời sống, học hành cho hai con nên vấn đề cấp dưỡng yêu cầu anh T1 thực hiện là cần thiết, do anh T1 vắng mặt suốt quá trình giải quyết nên chị T không thỏa thuận được với anh T1 về mức cấp dưỡng nuôi con. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị T mỗi tháng 1.000.000đ/con cho đến khi các con lần lượt đủ 18 tuổi là không cao so với đời sống hiện nay nên có căn cứ chấp nhận, phù hợp Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình về nghĩa vụ cấp dưỡng đối với người không trực tiếp nuôi con.
[2.3] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nợ chung: Chị T khai trong thời kỳ hôn nhân đến thời điểm ly hôn không có.
[3] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án xin ly hôn là 300.000đ, anh T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là 300.000đ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; căn cứ Điều 144, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; áp dụng điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1/ Về nội dung:
1.1/ Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Thanh T và anh Nguyễn Hoàng T1.
1.2/ Về nuôi con chung: Giao hai con chung Nguyễn Thái K, sinh ngày 28/10/2014 và Nguyễn A, sinh ngày 11/4/2017 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh T1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ/con (tương ứng với hai con mỗi tháng là 2.000.000đ) đến khi các con lần lượt đủ 18 tuổi.
Sau khi ly hôn anh T1 có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung thì chị T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con.
1.3/ Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết; nợ chung: Không có.
2/ Về án phí dân sự sơ thẩm:
2.1/ Chị Trần Thị Thanh T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu xin ly hôn là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai thu số N- 0004980 ngày 24/10/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V. Chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
2.2/ Anh Nguyễn Hoàng T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được Bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 13/2020/HNGĐ-ST ngày 21/04/2020 về ly hôn giữa chị T và anh T1
Số hiệu: | 13/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/04/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về