Bản án 13/2020/HNGĐ-ST ngày 15/01/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 13/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 15 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 356/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2020/QĐXX-ST ngày 02 tháng 01 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1995 Địa chỉ: thôn 9, xã Hoằng N, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Lê Xuân Q, sinh năm 1993 Địa chỉ: Thôn 9, xã Hoằng N, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt, vắng mặt bị đơn anh Lê Xuân Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/11/2019, bản tự khai ngày 06/12/2019 và lời khai tại phiên tòa của nguyên đơn chị Nguyễn Thị T thể hiện:

Tôi (T) và anh Lê Xuân Q tự nguyện kết hôn với nhau, được UBND xã Hoằng N, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2016. Sau khi cưới vợ chồng về sống với nhau không có hạnh phúc nguyên nhân do bất đồng về quan điểm nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau, vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay tôi nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Q. Do tình cảm của tôi đối với anh Q không còn, vợ chồng không thể đoàn tụ được nên tôi đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải.

Về con: Tôi( Tâm) và anh Lê Xuân Q có 01( Một) con chung Lê Xuân Tuấn Anh, sinh ngày 05/8/2017. Hiện nay cháu đang ở với tôi. Nay ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi cháu và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ: Tôi không yêu cầu giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh Lê Xuân Q đến để giải quyết vụ án, nhưng anh vẫn không có mặt.

Theo lời trình bày của ông Lê Xuân Th (là bố đẻ của anh Q) thể hiện: Con tôi đi làm ăn, thường xuyên về thăm gia đình và gọi điện về nhà, gần đây mới về nhà xong rồi lại đi, việc chị T xin ly hôn, Q có biết và nói với tôi gọi theo số điện thoại 0981348107. Quan điểm của anh Q là tình cảm vợ chồng vẫn còn mong nuốm vợ chồng đoàn tụ còn cô T cương quyết ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Nay do anh Q bận công việc bận nên anh không thể ở nhà để giải quyết được .

Về con chung: Chị Lê Thị T và anh Lê Xuân Q có 01( Một) con chung, Lê Xuân Tuấn Anh, sinh ngày 05/8/2017. Hiện nay cháu đang ở với chị T, chị T có nguyện vọng nuôi con thì anh Q cũng mong muốn nuôi cháu, nhưng do cháu đang còn nhỏ nên anh Q đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Về cấp dưỡng: Anh Q không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Qúa trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý, thông báo mở phiên họp, Quyết định đưa vụ án xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho anh Q nhưng anh không có mặt. Tòa án đã tống đạt được trực tiếp các văn bản tố tụng của Tòa án cho ông Lê Xuân Th ( bố đẻ) anh Q, ông cam kết nhận văn bản của Tòa án và giao lại ngay các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh Q.

Về án phí: Chị Lê Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị T không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ về yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Lê Thị T làm đơn đề nghị ly hôn đến Tòa án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ đầy đủ các văn bản tố tụng cho anh Q, anh biết việc chị T xin ly hôn và anh đưa ý kiến là đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của chị T. Tại phiên tòa ngày 14/01/2020, do anh Q vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233 và 235 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nay căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh Lê Xuân Q là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị T và anh Lê Xuân Q kết hôn với nhau vào năm 2016 trên cơ sở tự nguyện, do Ủy ban nhân dân xã Hoằng N, huyện Hoằng Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau chỉ hòa thuận một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, không thể hòa giải nổi, mặc dù đã được gia đình hòa giải nhưng không thành, vợ chồng sống ly thân không quan tâm gì đến nhau thể hiện tình cảm anh chị thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần áp dụng Điều 51,56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị T đối với anh Lê Xuân Q là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[3] Về con: Chị Lê Thị T và anh Lê Xuân Q có 01 con chung là cháu Lê Xuân Tuấn Anh, sinh ngày 05/8/2017. Hiện nay cháu đang ở với chị T. Nay ly hôn chị T có nguyện vọng tiếp tục nuôi cháu Anh.

Xét yêu cầu nuôi con HĐXX xét thấy: Cháu Lê Xuân Tuấn Anh, sinh ngày 05/8/2017 hiện nay cháu Anh đang còn nhỏ cần có sự quan tâm chăm sóc của người mẹ hơn bố, từ khi vợ chồng sống ly thân cháu ở với chị T chị đảm bảo chăm sóc, nuôi cháu phát triển tốt. Do đó chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị Lê Thị T. Giao cháu Anh cho chị tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh Q có quyền qua lại, thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Chị Lê Thị T và anh Lê Xuân Q không yêu cầu tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản: Chị Lê Thị T và anh Lê Xuân Q không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Nguyên đơn là chị Lê Thị T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51,56,57,58,81,82,83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Chị Lê Thị T được ly hôn anh Lê Xuân Q.

Về con: Công nhận cháu Lê Xuân Tuấn Anh, sinh ngày 05/8/2017 là con chung của chị Lê Thị T và anh Lê Xuân Q.

Giao cháu Lê Xuân Tuấn Anh cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi . Anh Q có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Chị Lê Thị T và anh Lê Xuân Q không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Lê Thị T phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2019/0009643 ngày 28 tháng 11 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa. Chị T đã thi hành xong.

Nguyên đơn chị Lê Thị T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn anh Lê Xuân Q có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 13/2020/HNGĐ-ST ngày 15/01/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:13/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;