Bản án 13/2020/DS-ST ngày 24/07/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 13/2020/DS-ST NGÀY 24/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 74/2020/TLST-DS ngày 09 tháng 3 năm 2020 về “Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2020/QĐXX-ST ngày 10 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên số 15/2020/QĐST-DS ngày 02-7-2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Ka Tr, sinh năm 1987 Địa chỉ: Số 92, Thôn 1, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Bà Ka D Địa chỉ: Thôn 3, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ông K’ Ph, sinh năm 1985 Địa chỉ: Số 92, Thôn 1, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.

Ông Ph ủy quyền cho bà Ka Tr (Văn bản ủy quyền ngày 21-5-2020) 2. Ông K’ T Địa chỉ: Thôn 3, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.

Bà Tr có mặt, bị đơn bà Ka D và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông K’ T vắng mặt tại phiên tòa 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai và lời trình bày tại Tòa án nguyên đơn bà Ka Tr trình bày:

Do quen biết nên ngày 10-11-2018 bà có cho vợ chồng bà Ka D, ông K’ T ứng tiền cà phê nhân Rôbusta với giá là 28.000đồng/1kg thành tiền là 5.600.000 đồng. Đến ngày 15-11-2018 bà Ka D mua tiếp 01 bao gạo trọng lượng 50 kg với giá 650.000 đồng, hai bên thỏa thuận miệng lãi suất 2%/tháng, hẹn đến ngày 31- 12-2018 thì trả hết số nợ trên. Tuy nhiên đến hẹn bà Ka D cũng không trả cho bà số nợ trên mặc dù đã rất nhiều lần đến nhà yêu cầu trả nợ, nhưng bà D cứ khất nợ và cho đến nay cũng chưa trả cho bà.

Bà Tr xác định, số nợ trên bà Ka D ứng về sử dụng mục đích chung cho gia đình nên yêu cầu vợ chồng bà Ka D và ông K’ T cùng có trách nhiệm trả cho bà số tiền 5.600.000đồng và 650.000đ. Tổng cộng 6.250.000đ, yêu cầu tính lãi từ ngày 01-01-2019 đến ngày 24-7-2020 làm tròn là 18 tháng với mức lãi suất 0,83%/tháng thành tiền là 934.000đ.

Chứng cứ, chứng minh: Bản chính tờ giấy kẻ ô ly được cắt ra từ sổ ghi chép có nội dung dòng đầu tiên ghi bằng viết mực đỏ: “ ứng cà phê Bạp Phước”, dòng thứ 2 có nội dung ghi: “10.11.18 /200kg/ 28/ 5.600.00đ (Năm triệu sáu trăm nghìn đồng....” bên cạnh có chữ ký và ghi họ tên Ka Din T3 Tân thượng. Toàn bộ nội dung được ghi bằng viết mực màu đỏ và xanh.

- Bản chính tờ giấy kẻ ô ly được cắt ra từ sổ ghi chép có nội dung dòng đầu tiên ghi: Bạp Phước phía trên cùng góc phải, dòng thứ 2 có nội dung “15.11.18 01 DT gạo 650.000 đồng.

Bị đơn bà Ka D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông K’ T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên Tòa nhưng vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng có quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng khác trong quá trình giải quyết vụ án là đúng quy định pháp luật. Phía bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.

Về việc giải quyết vụ án: Că cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ka Tr buộc vợ chồng bà Ka D, ông K’ T có trách nhiệm trả cho bà Ka Tr số tiền 6.250.000 đồng và tiền lãi. Bà D ông T phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay bị đơn vợ chồng ông K’ T, bà Ka D đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử vụ án theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa bà Ka Trợp trình bày: Bà Ka D ứng tiền cà phê và mua gạo của bà nên xác định quan hệ tranh chấp là Tranh chấp về hợp đồng dân sự mua bán tài sản.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Tr, Hội đồng xét xử thấy rằng: Căn cứ giấy xác nhận nợ do bà Ka Tr xuất trình trong quá trình giải quyết vụ án thể hiện tính đến ngày 10-11-2018, bà Ka D còn nợ bà Ka Tr số tiền 5.600.000 đồng ứng tiền cà phê và 650.000đ tiền mua gạo, bà Ka D ký xác nhận. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định việc bà D ứng tiền cà phê và mua gạo của bà Tr là có căn cứ và còn nợ số tiền 6.250.000đồng, bà Tr xác định bà D ứng tiền cà phê và mua gạo là để sử dụng vào mục đích chung của gia đình nên buộc vợ chồng bà D, ông T cùng có trách nhiệm trả số nợ trên cho vợ chồng bà Tr, ông Phlà có căn cứ.

[3] Về lãi suất: bà Ka Tr yêu cầu tính lãi suất với mức 0,83%/tháng trên số tiền 6.250.000đ, tính từ ngày 01-01-2019 đến ngày 24-7-2020 làm tròn 18 tháng thành tiền 934.000 đồng. Xét yêu cầu tính lãi là phù hợp với quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 nên cần chấp nhận yêu cầu tính lãi của bà Ka Tr là phù hợp.

[4] Từ phân tích trên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ka Tr buộc vợ chồng bà Ka D và ông K’ T có nghĩa vụ trả cho bà Ka Tr số tiền làm tròn 7.000.000 đồng. (Trong đó tiền gốc 6.250.000 đồng, tiền lãi 750.000 đồng) [5] Về án phí: Căn cứ Điều 144, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, bị đơn vợ chồng ông Tư, bà D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 7.000.000đ x 5% = 350.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 430, Điều 434, Điều 440, Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án .

Tuyên xử:

1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ka Tr về việc khởi kiện “Tranh chấp về hợp đồng dân sự mua bán tài sản”.

1.2. Buộc vợ chồng ông K’ T, bà Ka D có trách nhiệm trả cho vợ chồng ông K’ Pht, bà Ka Tr số tiền 7.000.000 đồng (Trong đó tiền gốc 6.250.000đ và tiền lãi 750.000đ).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yeu cầu thi hành án nếu bên phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ của số tiền còn phải thi hành án thì phải trả số tiền lãi, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả, theo mức lãi suất quy định Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015

2. Về án phí: Vợ chồng ông K’ T, bà Ka D phải chịu 350.000đ án phí DSST. Hoàn trả cho bà Ka Tr số tiền 300.000đ tạm ứng án phì đã nộp theo biên lai thu số 0014721 ngày 09-3-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Di Linh.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2020/DS-ST ngày 24/07/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán tài sản

Số hiệu:13/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;