TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 13/2020/DSST NGÀY 16/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 11/2020/TLST-DS ngày 03/3/2020 về việc “Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2020/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2020/QĐST-DS ngày 27 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng Á, sinh năm: 1985; Địa chỉ: thôn A (nay là thôn S), xã C, huyện Đ, tỉnh Gia Lai, có mặt tại phiên tòa.
2. Bị đơn: Chị Bùi Thị L, sinh năm: 1987; Địa chỉ: thôn A (nay là thôn T), xã C, huyện Đ, tỉnh Gia Lai, vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 02/3/2020 và bản tự khai ngày 03/3/2020, chị Lê Thị Hồng Á trình bày: Vào ngày 13/11/2019 chị Bùi Thị L có mượn chị Á số tiền là 60.000.000đồng, có viết giấy mượn tiền và ghi hạn trả nợ là 02 tháng, nhưng đến nay chị L chưa trả số tiền trên cho chị Á. Nay chị Á yêu cầu Tòa án buộc chị L phải trả số tiền 60.000.000đồng, chị Á không yêu cầu tính lãi.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án đã triệu tập chị L tham gia tố tụng nhiều lần, nhưng chị L không đến Tòa án tham gia tố tụng nên không có lời khai trong hồ sơ vụ án và Tòa án không tiến hành hòa giải được.
Các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp gồm: 01 Bản sao Giấy chứng minh nhân dân, 01 bản sao Sổ hộ khẩu mang tên chị Lê Thị Hồng Á; 01 Giấy mượn tiền ngày 13/11/2019 và 01 Bản tự khai.
Các tài liệu, chứng cứ do Tòa án tiến hành thu thập, xác minh: 01 biên bản xác minh ngày 20/5/2020.
Tại phiên tòa ý kiến của Kiểm sát viên: Về thủ tục tố tụng Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về điều luật áp dụng: Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463; Điều 466 và khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Về nội dung: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của chị Lê Thị Hồng Á. Buộc chị Bùi Thị L phải trả cho chị Á số tiền là 60.000.000đồng.
Về án phí: Giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Lê Thị Hồng Á có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai giải quyết buộc chị Bùi Thị L phải trả toàn bộ khoản nợ vay. Theo quy định tại khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án đã triệu tập chị Bùi Thị L tham gia tố tụng nhiều lần, nhưng chị L không đến Tòa án để tham gia tố tụng. Do đó Tòa án tiến hành theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
[2] Xét về nội dung vụ án: Qua lời khai của nguyên đơn tại phiên tòa và các chứng cứ do các đương sự cung cấp đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận vào ngày 13/11/2019 chị L có mượn chị Á số tiền là 60.000.000đồng, có viết giấy mượn tiền và ghi hạn trả nợ là 02 tháng, nhưng đến nay chi L chưa trả số tiền trên cho chị Á. Nay chị Á yêu cầu Tòa án buộc chị L phải trả số tiền 60.000.000đồng, chị Á không yêu cầu tính lãi.
Xét về hợp đồng vay tài sản giữa các bên là hợp đồng bằng văn bản và có thỏa thuận về thời hạn trả nợ, nhưng khi đến hạn trả nợ chị L không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chị Á là vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng như đã thỏa thuận, là vi phạm Điều 463 và khoản 1 Điều 466 của Bộ luật dân sự. Do đó việc chị Á yêu cầu Tòa án buộc chị L phải trả toàn bộ số tiền nợ gốc là 60.000.000đồng là đúng pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Trong quá trình giải quyết vụ án chị Á không có yêu cầu Tòa án tính lãi nên Hội Đồng xét xử không xem xét để giải quyết.
Từ những nhận định trên buộc chị Bùi Thị L phải có nghĩa vụ trả cho chị Lê Thị Hồng Á toàn bộ số nợ gốc là 60.000.000đồng.
[3] Về án phí: Chị Lê Thị Hồng Á không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Chị Bùi Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463; Điều 466 và khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Xử:
[1] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Hồng Á.
Buộc chị Bùi Thị L phải trả cho chị Lê Thị Hồng Á toàn bộ số tiền nợ gốc là 60.000.000đồng (sáu mươi triệu đồng) Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng còn phải trả cho người được thi hành án tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, mức lãi suất được xác định theo sự thỏa thuận giữa các bên nhưng không được vượt quá lãi suất giới hạn theo khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015. Nếu không có sự thỏa thuận thì mức lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015, tại thời điểm thanh toán.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Hồng Á không phải chịu án phí. Hoàn trả lại cho chị Á số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0006857 ngày 03/3/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Gia Lai.
Buộc chị Bùi Thị L phải nộp 3.000.000đồng (ba triệu đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[4] Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
[5] Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 16/9/2020. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Bản án 13/2020/DSST ngày 16/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 13/2020/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đăk Đoa - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về