Bản án 13/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN CANH, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 13/2019/HS-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

 Ngày 18 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Bùi Phúc H (Tên gọi khác: L ), sinh ngày 01 tháng 01 năm 1975 tại: An Nhơn, Bình Định; Nơi cư trú: Khu phố T, thị trấn V , huyện V , tỉnh B , nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn C , sinh năm 1927 (chết) và bà Phạm Thị T , sinh năm 1930; có vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1977; và 03 con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Tôn Nữ Kim Y , Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định bào chữa cho bị cáo Bùi Phúc H - Có mặt Địa chỉ: 57 Lê Hồng Phong, thị trấn Diêu Trì, Tuy Phước, Bình Định

 - Bị hại: Anh Nguyễn Kim N , sinh năm 1976 – Có mặt Địa chỉ: Khu phố T, thị trấn V , huyện V , tỉnh B

- Người làm chứng:

+ Ông Nguyễn Văn M , sinh năm 1955 (Có mặt) Địa chỉ: Khu phố 2, thị trấn V , huyện V , tỉnh B

+ Ông Võ Văn L , sinh năm 1959 (Có mặt) Địa chỉ: Khu phố 3, thị trấn V , huyện V , tỉnh B

+ Ông Huỳnh Văn Đ , sinh năm 1968 (Có mặt)

+ Ông Lư Bá C , sinh năm 1957 (Có mặt)

+ Anh Nguyễn Văn B , sinh năm 1974 (Có mặt) Đồng địa chỉ: Khu phố T, thị trấn V , huyện V , tỉnh B

+ Anh Hồ Văn M , sinh năm 1976 (Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn K, xã C, huyện V , tỉnh B

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 04/6/2019, Bùi Phúc H cùng Nguyễn Văn M , Võ Văn L , Huỳnh Văn Đ và Lư Bá C (cùng trú tại huyện V ) đang xúc cát lên xe tải của H tại khu vực hồ Suối Đuốc thuộc địa phận khu phố Hiệp Hà, thị trấn Vân Canh, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định. Sau đó, anh Nguyễn Kim N (sinh năm 1976, trú tại Khu phố T, thị trấn V , huyện V , tỉnh B) điều khiển xe ô tô tải mang BKS 77H - 6961 cùng tổ công của mình gồm Nguyễn Văn B , Hồ Văn M, Nguyễn Văn L (cùng trú tại huyện Vân Canh) đến hồ Suối Đuốc để xúc cát thì xảy ra mâu thuẫn. Anh Nguyễn Kim N gọi công của mình qua xúc cát chặn đường xe, không cho xe H đi vào và dùng những lời lẽ không hay với Bùi Phúc H . Nghe vậy, H cầm xẻng tiến lại chỗ anh N dùng xẻng chọc vào cửa xe bên tài ngay vị trí anh N ngồi nhưng N né tránh được. Sau đó, anh N qua cửa bên phụ mở cửa bước xuống xe, do bước trúng hố cát nên anh N té ngửa người ra. H dùng xẻng bổ từ trên xuống vào người anh N nhiều cái. Anh N bỏ chạy một đoạn khoảng 2m gặp hố nước nên té ngã. H tiếp tục dùng xẻng đánh liên tiếp vào người anh N , N dùng tay che đỡ. Do xẻng gãy và được can ngăn nên H ngừng lại. Anh N được đưa đi điều trị từ ngày 04/6/2019 đến ngày 15/6/2019 tại Trung tâm y tế huyện Vân Canh thì xuất viện và có đơn yêu cầu khởi tố vụ án (BL 27-29, 35, 69-83,84-108).

Theo kết luận giám định pháp y của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định số 134/2019/PY-TgT ngày 08/7/2019, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của anh Nguyễn Kim N là 8%, cụ thể: Chấn thương gây sưng nề, bầm tím cánh tay trái, để lại sẹo cánh tay trái. Hiện cánh tay trái đoạn 1/3 giữa sau có hai sẹo. Chấn thương gây sưng đau, bầm tím cổ tay phải đã điều trị. Hiện cẳng tay phải đoạn 1/3 dưới trong để lại sẹo kích thước (2x0,5)cm có diện rối loạn sắc tố da không thành sẹo dài 04cm; vận động cổ tay trong giới hạn bình thường. Chấn thương gây sưng, bầm tím mặt trước đùi trái đã điều trị. Hiện đùi trái đoạn 1/3 trên ngoài để lại sẹo mờ, xơ nhẹ kích thước (3x0,5)cm. Chấn thương gây xây xát da cẳng chân hai bên đã điều trị. Hiện mắt cá trong chân phải để lại sẹo kích thước (3x0,5)cm. Chấn thương gây sưng đau vùng ngực bên trái có sẹo mờ kích thước (5x0,5)cm. Chấn thương gây đau tức vùng chậu trái đã điều trị. Hiện vùng chậu trái không có dấu vết và di chứng. Hiện không thấy tổn thương xương sườn (BL 37-38).

Ngày 04/6/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Canh tạm giữ: 01 chiếc xe ô tô tải ben BKS 77H-6916; 01 chiếc xe ô tô tải ben BKS 77H-6561 đều mang nhãn hiệu Trường Giang, màu sơn xanh; 01 cái xẻng bị gãy phần lưỡi: cán bằng tre dài 1,2m, lưỡi bằng kim loại dài 37cm, rộng 23 cm, sống lưỡi dài 30cm, chuôi lưỡi dài 11cm có gắn với phần cán tre bị gãy. Ngày 29/8/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Canh đã trả lại 01 chiếc xe ô tô tải BKS 77H-6916 cho anh Nguyễn Kim N và 01 xe ô tô tải BKS 77H-6561 cho bà Nguyễn Thị T (BL 129-134).

Về dân sự: Anh Nguyễn Kim N yêu cầu bồi thường thiệt hại do thương tích gây ra là 39.366.000đ. Ngày 17/9/2019 Bùi Phúc H đã nộp 5.000.000đ để khắc phục hậu quả do hành vi của mình gây ra (BL 146-147).

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Phúc H thừa nhận đã dùng xẻng đánh bị hại gây thương tích, nguyên nhân là do bị hại dùng xe của mình để chặn đường xe bị cáo, không cho công của bị cáo xúc cát và trong lúc hai bên kình cãi bị hại đã dùng những lời lẽ xúc phạm bị cáo nên bị cáo tức giận không kiềm chế được mới dùng xẻng đánh nhiều cái vào người bị hại gây thương tích. Bị cáo biết lỗi và đã chủ động đến nhà bị hại để xin lỗi và bồi thường nhưng bị hại không chấp nhận.

Tại phiên tòa, bị hại Nguyễn Kim N thống nhất với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát và yêu cầu bị cáo H phải bồi thường thiệt hại cho bị hại các khoản như sau: Chi phí trong thời gian nằm viện: 2.564.000đ; Tiền chụp phim để giám định: 232.000đ; Tiền thuê xe đi chụp phim ở phòng khám 38 Lê Lợi: 700.000đ; Tiền thuê xe đi giám định tổn thương 02 lần: 1.400.000đ; Nộp tiền khám y chứng:

120.000đ; Thu nhập thực tế bị mất trong thời gian nằm viện 12 ngày x 800.000đ/ngày = 9.600.000đ; Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc 12 ngày x 200.000đ/ngày = 2.400.000đ; Bồi thường tổn thất tinh thần 15 tháng lương tối thiểu số tiền: 22.350.000đ; Tiền chi phí do công an huyện tạm giữ xe ô tô:

900.000đ; Bồi thường do sức khỏe bị giảm sút sau khi ra viện không tiếp tục đi lái xe được 30 ngày x 800.000đ = 24.000.000đ. Tổng số tiền là 64.266.000đ (Sáu mươi tư triệu hai trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).

Bản cáo trạng số 13/CT-VKSVC ngày 18/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Bùi Phúc H về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Bùi Phúc H . Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đã tự nguyện bồi thường 5.000.000đ để khắc phục hậu quả. Nên, đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình sự: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuyên phạt bị cáo Bùi Phúc H mức án từ 06 đến 09 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Về dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; Các Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự 2015. Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo về việc bị cáo chấp nhận bồi thường cho bị hại các khoản chi phí có hóa đơn, chứng từ hợp pháp và một số khoản tiền khác cụ thể như sau: Chi phí trong thời gian nằm viện: 2.564.000đ; Tiền chụp phim để giám định: 232.000đ; Tiền thuê xe đi chụp phim ở phòng khám 38 Lê Lợi: 700.000đ; Tiền thuê xe đi giám định tổn thương 02 lần: 1.400.000đ; Nộp tiền khám y chứng: 120.000đ; Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc 12 ngày x 200.000đ/ngày = 2.400.000đ.

Riêng khoản tiền thu nhập thực tế bị mất của bị hại trong thời gian nằm viện 12 ngày, đại diện Viện kiểm sát đề nghị 500.000đ/ngày; mức bồi thường tổn thất tinh thần 12 tháng lương tối thiểu.

Không chấp nhận yêu cầu của bị hại về khoản tiền chi phí do công an huyện tạm giữ xe ô tô: 900.000đ và bồi thường do sức khỏe bị giảm sút sau khi ra viện không tiếp tục đi lái xe là 30 ngày x 800.000đ = 24.000.000đ.

Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015. Đề nghị HĐXX tuyên tịch thu, tiêu hủy vật chứng vụ án là 01 cái xẻng bị gãy phần lưỡi: cán bằng tre dài 1,2m, lưỡi bằng kim loại dài 37cm, rộng 23 cm, sống lưỡi dài 30cm, chuôi lưỡi dài 11cm có gắn với phần cán tre bị gãy.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

* Trợ giúp viên pháp lý bà Lê Tôn Nữ Kim Y bào chữa cho bị cáo Bùi Phúc H nhất trí với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, nhưng không chấp nhận về mức hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Phúc H 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Về bồi thường dân sự: Thống nhất như đề nghị của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Canh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Phúc H khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trước đây tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do bị cáo H và bị hại N đã có mâu thuẫn trong việc làm ăn trước đó nên khoảng 07 giờ ngày 04/6/2019, khi bị cáo H cùng Nguyễn Văn M , Võ Văn L , Huỳnh Văn Đ và Lư Bá C đang xúc cát lên xe tải của bị cáo tại khu vực hồ Suối Đuốc thuộc địa phận khu phố Hiệp Hà, thị trấn Vân Canh, huyện Vân Canh thì thấy bị hại Nguyễn Kim N điều khiển xe ô tô tải mang BKS 77H - 6961 cùng tổ công của mình gồm Nguyễn Văn B , Hồ Văn M , Nguyễn Văn L đến hồ Suối Đuốc để xúc cát, hai bên xảy ra kình cãi. Bị hại gọi công của mình xúc cát chặn đường xe, không cho xe bị cáo đi và dùng những lời lẽ xúc phạm bị cáo nên bị cáo đã dùng xẻng chọc vào cửa xe bên tài ngay vị trí bị hại đang ngồi nhưng bị hại né tránh được. Khi bị hại xuống xe, do bước trúng hố cát nên bị té ngửa, bị cáo thấy vậy đã dùng xẻng bổ từ trên xuống nhiều cái trúng vào người bị hại gây thương tích. Tuy bị hại bỏ chạy nhưng bị cáo vẫn tiếp tục dùng xẻng đánh liên tiếp vào người bị hại đến khi xẻng gãy và được can ngăn thì mới dừng lại. Bị hại được đưa đi điều trị từ ngày 04/6/2019 đến ngày 15/6/2019 tại Trung tâm y tế huyện Vân Canh Theo kết luận giám định pháp y của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định số 134/2019/PY-TgT ngày 08/7/2019, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của bị hại Nguyễn Kim N là 8%. Nhận thấy, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “Dùng hung khí nguy hiểm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo hộ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Với hành vi và hậu quả mà bị cáo gây ra cần xử phạt bị cáo ở mức án nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự, nhất thời phạm tội. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đã tự nguyện bồi thường 5.000.000đ để khắc phục hậu quả. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần được xem xét.

[6] Về vật chứng vụ án: Xét thấy Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Canh thu giữ vật chứng là 01 (một) cái xẻng bị gãy phần lưỡi: cán bằng tre dài 1,2m, lưỡi bằng kim loại dài 37cm, rộng 23cm, sống lưỡi dài 30cm, chuôi lưỡi dài 11cm có gắn với phần cán tre bị gãy là hung khí nguy hiểm bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về bồi thường thiệt hại: Xét khoản tiền bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường là 64.266.000đ, nhận thấy:

[7.1] Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì bị hại vào viện ngày 04/6/2019, ra viện ngày 15/6/2019, như vậy thời gian điều trị tại bệnh viện là 12 ngày. Tại phiên tòa bị cáo chấp nhận bồi thường cho bị hại các khoản chi phí điều trị trong thời gian nằm viện 2.564.000đ, tiền chụp phim giám định 232.000đ, tiền thuê xe đi khám ở Lê lợi 700.000đ, tiền thuê xe đi giám định tỉ lệ tổn thương 2 lần 1.400.000đ, tiền khám y chứng 120.000đ, tiền thu nhập bị mất của người nuôi dưỡng là 2.400.000đ, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyên của bị cáo về việc bồi thường các khoản tiền trên.

[7.2] Đối với yêu cầu bồi thường thu nhập thực tế bị mất của bị hại trong thời gian nằm viện 12 ngày x 800.000đ/ngày = 9.600.000đ, bị cáo chỉ chấp nhận 500.000đ/ngày x 12 ngày = 6.000.000đ. Qua xem xét các tài liệu có trong hồ sơ và biên bản xác minh ngày công lao động của người làm nghề lái xe như bị cáo và bị hại trên địa bàn huyện Vân Canh thì mức thu nhập bình quân cùng loại được xác định là 600.000đ/ngày. Hội đồng xét xử chấp nhận mức thu nhập thực tế của bị hại là 600.000đ/ngày. Do đó, thu nhập thực tế bị mất của bị hại trong thời gian điều trị tại bệnh viện là 12 ngày là 12 ngày x 600.000đ/ngày = 7.200.000đ

[7.3] Căn cứ vào thương tích của bị hại Hội đồng xét xử chấp nhận 10 ngày nghỉ điều trị ổn định sức khỏe đối với bị hại, 10 ngày x 600.000đ/ngày = 6.000.000đ

[7.4] Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần: Căn cứ vào thương tích của bị hại, Hội đồng xét xử chấp nhận mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần bằng 15 lần mức lương cơ sở, thành tiền là: 15 tháng x 1.490.000đ/tháng = 22.350.000đ [7.5] Xét thấy yêu cầu bồi thường 900.000đ chi phí giữ xe của bị hại là không có căn cứ, bị hại không cung cấp được chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

Như vậy, tổng số tiền bị thiệt hại của bị hại Nguyễn Kim N là 42.966.000đ (Bốn mươi hai triệu chín trăm sáu mươi sáu nghìn đồng). Theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), các Điều 357, 584, 585 và 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì bị cáo Bùi Phúc H phải có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại trên cho bị hại Nguyễn Kim N.

[8] Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội.

Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo vì bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, có đơn xin miễn tiền án phí [9] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh về phần hình phạt là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Chấp nhận một phần đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về bồi thường thiệt hại.

[10] Xét đề nghị của trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tuyên bố bị cáo Bùi Phúc H phạm tội “Cố ý gây thương tích” - Xử phạt bị cáo Bùi Phúc H 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

2. Về bồi thường thiệt hại: Căn cứ khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 357, 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Bùi Phúc H phải bồi thường thiệt hại cho bị hại Nguyễn Kim N số tiền là 42.966.000đ (Bốn mươi hai triệu chín trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).

Tạm giữ số tiền bị cáo đã nộp là 5.000.000đ (Năm triệu đồng) tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vân Canh theo biên lai thu tiền số 000094 ngày 17/9/2019 để đảm bảo thi hành án.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu, tiêu hủy 01 (một) cái xẻng bị gãy phần lưỡi: cán bằng tre dài 1,2m, lưỡi bằng kim loại dài 37cm, rộng 23cm, sống lưỡi dài 30cm, chuôi lưỡi dài 11cm có gắn với phần cán tre bị gãy (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21 tháng 10 năm 2019 giữa Công an huyện Vân Canh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vân Canh).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:13/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Canh - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;