Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 18/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 13/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 18 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 86/2019/TLST- HNGĐ ngày 31 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2019/QĐXXST - HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2019giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L , sinh năm 1994.

HKTT: Số 112 phố T, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Anh Nguyễn Huy Th, sinh năm 1993.

HKTT: Số 112 phố T, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa.

Hiện đang chấp hành hình phạt tù tại: Đội 11, Trại giam số 5, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa.

Địa chỉ: Thị trấn Th, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Huy Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 13 tháng 3 năm 2013, tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Th không chịu tu chí làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình, chơi bời lêu lổng dẫn đến vi phạm pháp luật phải đi chấp hành án từ năm 2014 đến năm 2017 với tội danh Tàng trữ trái phép chất ma túy. Sau khi ra trại, anh Th vẫn không thay đổi nên vợ chồng thường xuyên cãi vã lẫn nhau. Mâu thuẫn đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện. Đến năm 2018 anh Th lại vi phạm pháp pháp luật và phải đi chấp hành hình phạt 27 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Hiện nay, anh Th đang chấp hành hình phạt tù tại Đội 11, Trại giam số 5, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa. Nay chị L xác định tình cảm giữa chị và anh Th không còn nên đề nghị Toà án nhân dân thành phố H cho Chị được ly hôn với anh Nguyễn Huy Th.

- Về con chung: Chị và anh Nguyễn Huy Th có 01 con chung là cháu Nguyễn Nam T, sinh ngày 04/12/2014. Hiện nay cháu đang ở với chị. Nguyện vọng của Chị khi ly hôn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nam T và không yêu cầu anh Th phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản, công nợ: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị đơn anh Nguyễn Huy Th trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị L kết hôn ngày 13 tháng 3 năm 2013, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh chơi bời, vi phạm pháp luật và phải đi chấp hành án phạt tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Nay chị L làm đơn xin ly hôn, anh cũng đồng ý.

- Về con chung:

Anh và chị Lệ có 01 con chung là cháu Nguyễn Nam T, sinh ngày 04/12/2014. Nguyện vọng của Anh khi ly hôn giao cháu T cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng. Vì anh đang đi chấp hành hình phạt tù nên không có điều kiện nuôi con, anh đề nghị để con cho bà nội là Trần Thị D ở phường Đ, thành phố H nuôi dưỡng, khi nào anh chấp hành xong hình phạt tù sẽ về chăm sóc cháu, đề nghịTòa án xem xét, giải quyết.

- Về tài sản, công nợ: Anh Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu như trong đơn khởi kiện.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thanh Hóa tại phiêntòa:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ thời điểm thụ lý vụ án đến nay đã thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn đang chấphành hình phạt tù tại Trại giam, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, Tòa án tiếnhành xét xử vắng mặt anh Th là đúng quy định.

Quan điểm giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Nam T cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Th không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Huy Th có hộ khẩu thường trú trên địa bàn thành phốH. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án thành phố H thụ lý, xét xử vụ án là đúng quy định.

Bị đơn là anh Nguyễn Huy Th vắng mặt tại phiên tòa, anh Th có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt vì lý do đang phải chấp hành hình phạt tù tại Trại giam. Chị L đề nghị Toà án tiến hành xét xử vụ án, nên Toà án căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vắng mặt anh Th là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Huy Th kết hôn năm 2013, trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Th không chịu tu chí làm ăn, vi phạm pháp luật nên phải đi chấp hành hình phạt tù. Anh Th cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu khởi kiện của chị L.

Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chung xây cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây anh Th đã không có trách nhiệm với gia đình, hiện tại cũng không có điều kiện để cải thiện cuộc sống vợ chồng. Do đó cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã phân tích, động viên chị L cho anh Th thêm cơ hội, chờ anh Th đi chấp hành hình phạt tù về, vợ chồng đoàn tụ, cùng nhau nuôi dạy con cái nhưng chị L vẫn cương quyết xin được ly hôn anh Th, mặt khácanh Th cũng đồng ý với yêu cầu ly hôn của chị L. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng giữa chị L và anh Th không thể hàn gắn được nữa. Do đó nếu buộc anh, chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng không thể cải thiện được nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Nguyễn Huy Th là phù hợp pháp luật.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Huy Th thống nhất có 01 con chung là cháu Nguyễn Nam T, sinh ngày 04/12/2014. Anh Th và chị L đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nam T nhưng xét về điều kiện nuôi con thì hiện nay anh Th đang phải đi chấp hành hình phạt tù, không có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Anh Th đề nghị giao cháu Nam T cho bà nội trực tiếp nuôi dưỡng là không phù hợp vì hiện nay chị L là người đang trực tiếp nuôi cháu, chị L có nơi ở và có thu nhập ổn định. Do đó việc giao cháu Nam T cho chị L nuôi dưỡng là phù hợp. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù, anh Thắng có quyền làm đơn thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu có đủ điều kiện và có yêu cầu. Do đó chấp nhận yêu cầu của chị L về việc được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con chung.

 [4] Về tài sản: Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Huy Th đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Nguyễn Huy Th.

Về con chung: Công nhận chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Huy Th có 01 con chung là cháu Nguyễn Nam T, sinh ngày 04/12/2014. Giao cháu Nam T cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Th không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Nguyễn Huy Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Giành quyền cho Th được yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn nếu có yêu cầu.

Về tài sản: Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Huy Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Án phí: Chị Nguyễn Thị L phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, nhưngđược trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai số AA/2017/0006807 ngày 28/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H. (Chị L đã nộp đủ án phí).

Về quyền kháng cáo: Chị L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 18/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:13/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;