Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH HẢI - TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 13/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải - tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 13/2019/TLST-HNGĐ ngày 10/01/2019 về việc "Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2019/QĐHNGĐ-ST ngày 18/4/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D- sinh năm: 1989 (có mặt)

Địa chỉ: Thôn A, xã X, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

Tạm trú: Thôn VH, xã V, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.

2. Bị đơn: Ông Văn Ngọc Tr - sinh năm: 1980 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị D trình bày: Bà và ông Văn Ngọc T tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 111/2015 ngày 03/11/2015 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Ninh Hải. Tuy nhiên, một thời gian sau khi kết hôn, giữa vợ chồng bà phát sinh mâu thuẫn, ông Văn Ngọc T thường xuyên uống rượu bia, có hành vi bạo lực, chửi mắng, đánh đập bà. Đặc biệt vào ngày 24/12/2018, ông T dùng dao đâm bà hai nhát vào đầu, vai nên phải nhập viện cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận nhưng ông T không chăm sóc bà. Từ cuối năm 2018, vợ chồng bà sống ly thân và không còn tình cảm với nhau, mặc ai người nấy sống.

Nay bà khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà yêu cầu ly hôn với ông Văn Ngọc T.

- Về con chung: Yêu cầu Tòa án giao con chung là cháu Văn Ngọc Chí T, sinh ngày 03/4/2017 cho bà trực tiếp nuôi dưỡng. Bà không yêu cầu ông Văn Ngọc T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do ông Văn Ngọc T không có mặt tại buổi hòa giải, phiên tòa sơ thẩm nên không có lời trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải tống đạt các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải 02 lần và quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa trong thời hạn 15 ngày theo quy định tại điều 177, điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp quy định pháp luật.

[2] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị D và ông Văn Ngọc T được kết hợp trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên xác định là hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến cuối năm 2018, hôn nhân xảy ra mâu thuẫn vì ông T có hành vi dùng dao đâm vào vai, gáy của bà D dẫn đến thương tích nhưng ông T không quan tâm, chăm sóc bà D. Do vậy vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay.

Tại Biên bản xác minh tại thôn Đ ngày 19/02/2019 (BL 29) thể hiện: Ông Văn Ngọc T và bà Nguyễn Thị D thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Hiện nay ông T, bà D không còn sống chung với nhau.

[3] Xét thấy, hôn nhân của vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào điều 56 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Nguyễn Thị D.

[4] Về con chung: Vợ chồng bà D, ông T có 01 con chung là cháu Văn Ngọc Chí T, sinh ngày 03/4/2017. Do cháu T chưa đủ 36 tháng tuổi, nên Hội đồng xét xử giao cháu T cho bà Nguyễn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cháu T, tạo điều kiện cho cháu T có môi trường giáo dục, chăm sóc tốt và phù hợp với quy định của pháp luật. Ông Văn Ngọc T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát về thủ tục tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân luôn tuân theo pháp luật tố tụng; Nguyên đơn luôn chấp hành pháp luật. Riêng bị đơn vắng mặt nhưng Tòa án đã thực hiện tống đạt thủ tục tố tụng theo quy định và xét xử vắng mặt bị đơn là đúng pháp luật. Về nội dung vụ án: Tình trạng hôn nhân của hai bên đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về con chung: Giao cháu Văn Ngọc Chí T cho bà D chăm sóc và nuôi dưỡng. Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Căn cứ vào những phân tích trên, xét thấy quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 điều 56, điều 58; điều 81, điều 82, điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

2.Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị D được ly hôn với ông Văn Ngọc T.

3.Về con chung: Bà Nguyễn Thị D có quyền và nghĩa vụ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Văn Ngọc Chí T sinh ngày 03/4/2017. Ông Văn Ngọc T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

4.Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

5.Về án phí: Bà Nguyễn Thị D phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0015930 ngày 10/01/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ninh Hải. Bà D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm có mặt nguyên đơn quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; vắng mặt bị đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày niêm yết bản án hoặc tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn

Số hiệu:13/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;