TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B - TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 13/2018/HSST NGÀY 08/08/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12/2018/TLST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2018/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo
Hàng Seo V, sinh ngày 09/5/1996 tại huyện B, tỉnh Lào Cai.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở hiện nay: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lào Cai; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 08/12; Dân tộc: Mông; Giới tính Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hàng Seo H (Đã chết) và bà: Cư Thị S; vợ: Vàng Thị C; con: có 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Bị cáo chưa bị xét xử và xử lý hành chính về hành vi nào; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 16 tháng 5 năm 2018, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện B, tỉnh Lào Cai - Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo V: Bà Cù Thuý Minh - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Cai. Có mặt.
Người bị hại: Anh Vàng Seo Th - Sinh năm 1984; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Nơi cư trú: Thôn S, xã T, huyện B, tỉnh Lào Cai. Có ý kiến đề nghị xét xử vắng mặt.
Người phiên dịch tiếng Mông: Anh Giàng Seo Phảng - sinh năm 1981. Nơi cư trú: Tổ dân phố 2, TT B, huyện B, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 03/9/2017, Hàng Seo V đến nhà anh Vàng Seo Th sinh năm 1984, trú tại thôn S, xã T, huyện B mượn xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX biển số 24B1-834.60 của anh Th để đưa bố dượng là ông Gàng Seo H trú tại xã L, huyện B đi bệnh viện điều trị, anh Th đồng ý cho V mượn, giao chìa khóa xe cho V và nói xe đang gửi tại nhà anh Vàng Seo C1 ở thôn N, xã T ra đấy lấy đi, tối mang xe về trả. Nhận được chìa khóa xe V đến nhà anh C1 lấy xe điều khiển xe đi sang nhà ông H thì thấy ông H đã đi viện về đang ở nhà, V ngồi chơi một lúc rồi đi xe lên nhà anh Thào Seo L ở xã C, huyện S chơi và ngủ tại nhà L, ngày hôm sau khoảng 18 giờ ngày 04/9/2017 đi về nhà người quen là anh Ly Seo M và anh Thào Văn M1 ở xã L, huyện B chơi đến khoảng 15 giờ ngày 09/9/2017 V vay 50.000đ của chị Thào Thị Ph ( chị gái M1) để đổ xăng xe, V dắt xe xuống đến thôn T, xã T, huyện B dừng lại mở cốp xe thấy trong cốp có 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Vàng Seo Th và 05 thẻ bảo hiểm y tế của gia đình, 01 tô vít hình chữ (T), V dùng tô vít này tháo biển số xe cất vào trong cốp xe, tiếp tục dắt xe xuống cây xăng thị trấn B mua xăng rồi điều khiển xe vào quán cơm của bà Phạm Thị T ở chợ văn hóa B ăn tối, ăn xong không có tiền trả nên V nói với bà T cầm cố chiếc biển số xe 24B1-834.60 và hẹn 1 đến 2 ngàysau sẽ quay lại chuộc, bà T đồng ý, Vảng đưa biển số xe cho bà T cất, V điều khiển xe ra xã B, huyện BT vào quán bắn cá điện tử của anh Nguyễn Văn A xem mọi người chơi đến khoảng 17 giờ ngày 10/9/2017 do không có tiền chơi nên V đã cầm cố chiếc xe mô tô của anh Th cho chủ quán Nguyễn Văn A để lấy 2.500.000đ để chơi trò chơi bắn cá và hẹn 06 ngày sau sẽ quay lại chuộc xe, V dùng số tiền trên chơi trò chơi bắn cá và tiêu sài cá nhân hết rồi bỏ sang Trung Quốc làm thuê.
Người bị hại Vàng Seo Th không thấy V mang về trả, anh Th đã đi tìm nhiều nơi không thấy. Đến ngày 13/5/2018 V về địa phương. Tại cơ quan điều tra Hàng Seo V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 08 ngày 15/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX biển số 24B1-834.60 của anh Vàng Seo Th có giá trị 13.200.000 đồng (Mười ba triệu hai trăm nghìn đồng).
Tại bản cáo trạng số 12/CT-VKS-BH ngày 02/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Hàng Seo V về: “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hàng Seo V phạm : “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999. Trong đó:
Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 140; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Đề nghị xử phạt bị cáo Hàng Seo V từ 05 đến 09 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về bồi thường thiệt hại dân sự: Buộc bị cáo Hàng Seo V phải bồi thường cho anh Vàng Seo Th số tiền công đi tìm xe và các khoản chi phí khác là 5.000.000 đồng.
Buộc bị cáo phải chịu án phí theo qui định và tuyên quyền kháng cáo bản án cho bị cáo.
Người bào chữa cho các bị cáo Hàng Seo V có mặt tại phiên toà và trình bày: Nhất trí với quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai về tội danh truy tố và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân bị cáo trước khi phạm tội chưa có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản đã được thu hồi và trả cho chủ sở hữu; tài sản phạm tội có giá trị không lớn và đã được thu hồi trả cho người bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo Hàng Seo V được hưởng mức án là 09 tháng tù và hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện B, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà bị cáo Hàng Seo V đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã được tóm tắt ở phần trên. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật, thành khẩn khai báo. Đã có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 03 tháng 9 năm 2017, bị cáo Hàng Seo V đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chiếc xe mô tô của anh Vàng Seo Th với mục đích lấy tiền tiêu sài cá nhân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành của “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội khi Bộ luật hình sự năm 1999 còn hiệu lực và Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 đối với tội danh bị cáo thực hiện hành vi có mức khởi điểm của khung hình phạt cao hơn Bộ luật hình sự năm 1999, do vậy để đảm bảo theo hướng có lợi cho bị cáo nên cần áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo.
Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Hàng Seo V ra trước toà về: “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản " theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình năm 1999 sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Về tính chất mức độ hành vi, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Do đó, phải xử phạt bị cáo nghiêm minh và tuyên mức án tương xứng với tính chất và mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Xét thấy, bị cáo Hàng Seo V trước khi phạm tội có nhân thân tốt, sau khi phạm tội quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản đa được thu hồi và trả cho chủ sở hữu; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được Hội đồng xét xử áp dụng khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo và giảm nhẹ cho bị cáo 1 phần hình phạt thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.
Bị cáo Hàng Seo V không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm theo qui định của Bộ luật hình sự.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người có mức thu nhập không đều và không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Hàng Seo V.
[5]. Đối với anh Nguyễn Văn A và anh Nguyễn Văn T là những người đã cho Hàng Seo V cầm cố xe và mua lại xe cầm cố của bị cáo. Sau khi V không đến chuộc xe mô tô như cam kết, anh A đã bán xe cho anh T. Quá trình điều tra xác định anh Nguyễn Văn A và anh Nguyễn Văn T không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Do vậy, cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp và đúng qui định của pháp luật.
Đối với bà Phạm Thị T là người đã cho bị cáo nợ tiền và cầm cố chiếc biển kiểm soát xe số 24B1-834.60. Chiếc biển kiểm soát trên đã được thu hồi trả cho chủ sở hữu và bà T cũng không có yêu cầu bị cáo phải trả số tiền còn nợ. Do vậy, cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp và đúng qui định của pháp luật.
[6] Đối với vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra đã thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX màu sơn đỏ đen, số máy JA31E0279367, số khung 3113EY150557; 01 Biển kiểm soát số 24B1-834.60. Hiện đã trả cho chủ sở hữu là anh Vàng Seo Th. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với qui định của pháp luật nên không đề cập giải quyết.
[7]. Những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội của Kiểm sát viên; bị cáo đều phù hợp và được Hội đồng xét xử chấp thuận. Đối với ý kiến của người bào chữa cho bị cáo về áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo V được hưởng án treo: Hội đồng xét xử thấy rằng, mặc dù bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn sang Trung Quốc làm thuê, lén lút trở về và tiếp tục bỏ sang Trung Quốc làm thuê để trốn tránh trách nhiệm với người bị hại và không báo tạm vắng khi đi khỏi địa phương, gây khó khăn trong việc quản lý của chính quyền cơ sở. Do vậy, xét thấy cần phải buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù là phù hợp.
[8]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Vàng Seo Th đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Hàng Seo V phải bồi thường cho anh số tiền 5.000.000đ tiền công đi tìm xe và các khoản chi phí hợp lý khác. Bị cáo Hàng Seo V nhận và hứa có trách nhiệm trả đủ số tiền trên theo yêu cầu của người bị hại. Hội đồng xét xử thấy rằng, việc yêu cầu của người bị hại là có cơ sở và cần buộc bị cáo Hàng Seo V phải bồi thường cho anh Vàng Seo Th số tiền là 5.000.000 đồng.
[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí có giá ngạch theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hàng Seo V phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 140; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Hàng Seo V 7 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16 tháng 5 năm 2018.
2. Về bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Hàng Seo V có trách nhiệm bồi thường những người bị hại anh Vàng Seo Th số tiền công đi tìm xe và các khoản chi phí hợp lý khác là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng chẵn).
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Buộc bị cáo Hàng Seo V phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn) tiền án phí Hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng chẵn) tiền án phí Dân sự có giá ngạch. Tổng cộng là: 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng chẵn).
4. Quyền kháng cáo Bản án: Bị cáo; người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án theo qui định tại khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự, người được thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 13/2018/HSST ngày 08/08/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 13/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Yên - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/08/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về