Bản án 13/2018/HSST ngày 04/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 13/2018/HSST NGÀY 04/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 4 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2018/HSST ngày 15 tháng 3 năm 2018, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2018/QĐXX- HS ngày 20 tháng 3 năm 2018, đối với:

Bị cáo Nguyễn Kim L, sinh năm 1991.

Sinh trú quán: Đội I, thôn N, thị trấn N, huyện V, tỉnh Hưng Yên.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Kim Đ và bà Đỗ Thị L; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: chưa có; nhân thân: Năm 2013 bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 01 năm tại Trung tâm chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội tỉnh Hưng Yên.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/12/2017. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam, Công an tỉnh Hưng Yên. - có mặt.

Người làm chứng:

Ông Nguyễn Đức C, sinh năm 1952, vắng mặt. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1969, vắng mặt. Bà Đỗ Thị L, sinh năm 1967, vắng mặt.

Đều có địa chỉ: Thôn N, Thị trấn N, huyện V, tỉnh Hưng Yên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Kim L là đối tượng nghiện các chất ma túy (heroin). Do cần ma túy để sử dụng nên khoảng 12 giờ ngày 03/12/2017, L đi bộ một mình từ nhà ra bến xe buýt Như Quỳnh, rồi đi xe buýt lên khu vực thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh để mua ma túy. Khi đến một điểm dừng xe buýt ở thị xã Từ Sơn, L xuống xe buýt rồi thuê xe ôm chở đi, trên đường đi L hỏi người xe ôm "Có biết chỗ nào bán hàng trắng không (nghĩa là bán heroin không)", người xe ôm điều khiển xe mô tô chở L đến một ngõ thuộc địa phận thị xã Từ Sơn thì dừng xe lại đỗ xe ở đầu ngõ rồi dùng tay chỉ vào một ngôi nhà dân có cửa sắt ở trong ngõ. Sau đó L trả tiền xe ôm rồi đi bộ một mình đến vị trí ngôi nhà có cửa sắt ở trong ngõ. Cửa sắt của ngôi nhà đóng kín, chỉ có một lỗ khóa để đóng mở chìa khóa. L lấy số tiền 1.000.000 đồng cầm ở tay phải rồi đưa số tiền trên qua khe lỗ khóa đó và bảo bán cho ma túy heroin thì ở phía trong ngôi nhà có một người cầm tiền của L rồi đưa cho L 01 túi nilon bên trong có: 01 túi nilon nhỏ có ghen mở màu trắng, 01 mảnh túi nilon màu xanh và 06 gói giấy bên trong đều chứa ma túy heroin. L cất tất cả số ma túy vừa mua được vào túi quần phía trước bên phải rồi đi bộ ra một điểm chờ xe buýt ở khu vực thị xã Từ Sơn. Tại đây L lấy một vỏ hộp sắt của bao thuốc lá Thăng Long, bên trong có sẵn 01 con dao lam (loại dao cạo râu) mà L đem theo từ trước, đồng thời L lấy túi nilon đựng tất cả số ma túy vừa mua được ra rồi vứt bỏ túi nilon ngoài cùng, sau đó L cất 02 gói nilon nhỏ bên trong chứa heroin cùng 06 gói giấy bên trong chứa heroin vào trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long rồi cất chiếc hộp sắt đó vào túi quần bò phía trước của L. Sau đó L đón xe buýt đi về bến xe buýt ở thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, rồi đi bộ về nhà. Khi L đi đến đoạn đường thuộc Đội 7, thôn Ngô Xuyên, thị trấn Như Quỳnh thì bị Công  an huyện Văn Lâm kết hợp với Công an thị trấn Như Quỳnh kiểm tra hành chính đối với L và yêu cầu xuất trình giấy tờ. L xuất trình một thẻ sử dụng Mathadone do Trung tâm y tế huyện Văn Lâm cấp mang tên L và đưa ra một hộp sắt là vỏ bao thuốc lá Thăng Long tại túi quần phía trước bên phải của L. Mở hộp sắt thuốc lá Thăng Long nêu trên phát hiện bên trong có: 01 túi nilon nhỏ có ghen mở màu trắng bên trong chứa chất màu trắng dạng cục, 01 mảnh túi nilon màu xanh bên trong chứa chất màu trắng dạng cục và 06 gói giấy bên trong chứa chất màu trắng dạng cục, 01 con dao lam đã qua sử dụng. L khai nhận toàn bộ các chất màu trắng dạng cục nêu trên đều là ma túy heroin do L vừa mua về để sử dụng. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Văn Lâm đã lập biên quả tang đối với L và niêm phong chiếc hộp sắt thuốc lá Thăng Long bên trong có các gói ni lon và gói giấy chứa chất bột màu trắng dạng cục nêu trên, niêm phong kí hiệu "I", ngoài ra còn thu giữ của L 01 thẻ sử dụng Mathadone mang tên Nguyễn Kim L và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã cũ. Cùng ngày 03/12/2017, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Văn Lâm tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của L nhưng không thu giữ gì.

Ngày 03/12/2017, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Văn Lâm ra Quyết định trưng cầu giám định đối với các chất trong niêm phong "I" nêu trên. Bản thông báo kết luận sơ bộ số 27/PC54 ngày 03/12/2017 và Kết luận giám định số 27 ngày 25/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên, xác định: Chất màu trắng dạng cục và bột trong niêm phong ghi số I thu của Nguyễn Kim L, có tổng trọng lượng 0,641g, là ma túy; là loại Heroin.

Quá trình điều tra: Không xác định được nhân thân, địa chỉ đối tượng đã bán ma túy cho L và người xe ôm đã điều khiển xe mô tô chở L đi mua ma túy. L cũng không nhớ, không chỉ dẫn được vị trí ngôi nhà có chiếc cửa sắt mà L đã mua ma túy nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã cũ thu giữ của L xác định là điện thoại của L. L không sử dụng chiếc điện thoại trên để liên lạc vào việc phạm tội.

Bản cáo trạng số 10/CT-VKS-VL, ngày 15/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên để xét xử Nguyễn Kim L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà; Bị cáo thành khẩn khai báo như nội dung cáo trạng đã truy tố, thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo trình bày bị nghiện ma túy từ năm 2009, đã đi cai nghiện nhưng chưa được, bị cáo mua về để sử dụng. Lý do bị cáo lên Từ Sơn mua ma túy là do bạn nghiện nói.

Bị cáo có đi làm thuê nhưng không có tích lũy được tài sản gì, vẫn sống phụ thuộc vào gia đình.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Kim L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Kim L từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù, thời gian tù tính từ ngày 03/12/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Các biện pháp tư pháp: Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu hủy bỏ 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu vật giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên.

Trả lại bị cáo Nguyễn Kim L 01 thẻ sử dụng methadone mang tên Nguyễn Kim L, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã cũ.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bản cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử được tống đạt cho bị cáo đúng pháp luật; việc lấy lời khai những người tham gia tố tụng, hỏi cung bị can đều đảm bảo. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì. Hội đồng xét xử xác định việc điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung; lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo có trong hồ sơ, phù hợp với lời khai người làm chứng, với các chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 03/12/2017, tại đoạn đường thuộc Đội 7, thôn Ngô Xuyên, thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, bị cáo Nguyễn Kim L đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép trong người 0,641gam Heroin để sử dụng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Văn Lâm phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi trên của bị cáo Nguyễn Kim L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tại thời điểm xảy ra hành vi phạm tội Bộ luật hình sự năm 1999 đang có hiệu lực pháp luật, nên tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Khi so sánh, đối chiếu khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử thấy; so với quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy thì mức hình phạt quy định có lợi hơn cho bị cáo. Theo quy định tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về áp dụng tình tiết có lợi cho người phạm tội, Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền về quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, trong tình hình tệ nạn ma túy đang gây nhức nhối trật tự, an toàn xã hội, gây bất bình trong cộng đồng dân cư. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng do không làm chủ bản thân nên đã nghiện ma túy và tàng trữ ma túy để sử dụng. Việc sử dụng ma tuý ảnh hưởng đến sức khoẻ và phá vỡ các giá trị đạo đức tốt đẹp của con người. Tệ nạn ma tuý là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, nguy cơ lây lan các bệnh nguy hiểm cũng xuất phát từ việc sử dụng trái phép ma túy. Với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải có mức hình phạt tương xứng, tiếp tục bắt bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian thì mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo và phòng ngừa các hành vi tương tự xảy ra.

Xong cũng xét đến quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo có cụ là liệt sỹ, bố bị cáo được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất, áp dụng điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử có căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định  “Người  phạm tội  còn  có thể bị  phạt tiền  từ  5.000.000 đồng  đến 500.000.000 đồng,… ” do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định, việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Các biện pháp tư pháp: Về xử lý vật chứng:

01 phong bì hoàn mẫu vật gửi giám định của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hưng Yên, bên trong chứa ma túy và 01 lưỡi dao lam, đây là vật chứng bị thu giữ và công cụ phương tiện sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu huỷ bỏ.

01 thẻ sử dụng methadone mang tên Nguyễn Kim L, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã cũ thu giữ của bị cáo không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo.

Việc bị cáo khai mua ma tuý của đối tượng không rõ tên địa chỉ tại Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh và đối tượng giúp bị cáo chở xe ôm đi mua ma túy; Hội đồng xét xử kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý theo pháp luật.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định án lệ phí của Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Kim L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Kim L 02 năm tù, thời gian tù tính từ ngày 03/12/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Các biện pháp tư pháp: Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu hủy bỏ 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu vật giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên.

Trả lại bị cáo Nguyễn Kim L 01 thẻ sử dụng methadone mang tên Nguyễn Kim L, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã cũ.

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Kim L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2018/HSST ngày 04/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:13/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lâm - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;