TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 13/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Trong ngày 30/3/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 22/2018/TLST-HNGĐ ngày 16/01/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 05/3/2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1980 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp T, xã A, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1982 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp T, xã A, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện đề ngày 28/11/2017 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị K trình bày:
Vào năm 2008, bà Nguyễn Thị K và ông Nguyễn Văn G tự nguyện kết hôn với nhau, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ cấp giấy chứng nhận kết hôn số 56, quyển số 01/2008, ngày 07 tháng 10 năm 2008. Sau khi kết hôn vợ chồng bà K chung sống hạnh phúc được 01 năm, đến năm 2009 bà K và ông G phát sinh mâu thuẫn, do ông G thường xuyên uống rượu và đánh đập, bạo hành bà K. Bà đã chịu đựng một thời gian dài, đến nay thì không thể chung sống với ông G được nữa nên bà K yêu cầu được ly hôn. Vợ chồng bà đã không còn chung sống từ năm 2014 đến nay. Trong thời gian chung sống bà K và ông G có một con chung tên Nguyễn Thị L, sinh ngày 20/8/2009 hiện đang chung sống với bà K.
Nay bà K yêu cầu được ly hôn với ông G. Về con chung, bà K yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Thị L đến đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông G phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Nguyễn Văn G, nhưng ông G không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu ly hôn, nuôi con của bà K, đồng thời ông G cũng không đến tham gia phiên hòa giải cũng như tham gia phiên tòa.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị K.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho ông Nguyễn Văn G nhưng ông G vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Nguyễn Văn G.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K, nhận thấy bà K và ông G tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới năm 2008, có đăng ký kết đã được Ủy ban nhân dân xã A cấp giấy chứng nhận kết hôn số 56 quyển số 01/2008 ngày 07/10/2008. Quan hệ hôn nhân của bà K và ông G không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nhưng sau một năm chung sống, đến năm 2009 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm sống dẫn đến cãi vã, ông G thường xuyên uống rượu và dùng bạo lực với bà K. Bà K đã nhiều lần khuyên can nhưng ông G vẫn không sửa đổi. Hiện bà K nhận thấy không còn tình cảm với ông G, không thể chung sống với ông G được nữa nên có nguyện vọng ly hôn. Hội đồng xét xử đã phân tích động viên bà K suy nghĩ lại, hàn gắn tình cảm vợ chồng với ông G nhưng bà K vẫn cương quyết xin được ly hôn, từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Nguyễn Thị K được ly hôn với ông Nguyễn Văn G.
Thời gian chung sống bà K và ông Gán có 01 con chung là Nguyễn Thị L, sinh ngày 20/8/2009 hiện đang sống với bà K. Bà K yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi cháu L đủ 18 tuổi. Để đảm bảo cuộc sống của cháu không bị xáo trộn, để cháu phát triển bình thường về tâm, sinh lý đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu là muốn được sống với mẹ, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu được nuôi con của bà K. Hiện bà K có việc làm, thu nhập ổn định, đảm bảo đủ điều kiện nuôi con, nên việc bà K không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về tài sản chung: Bà K trình bày tài sản chung không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Về nợ chung: Bà K trình bày nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị K phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy định tại điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 36, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị K.
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị K được ly hôn với ông Nguyễn Văn G.
- Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thị L, sinh ngày 20/8/2009 cho bà Nguyễn Thị K trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu L đủ 18 tuổi. Ông Nguyễn Văn G không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông Nguyễn Văn G được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở, ông Nguyễn Văn G không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thị L của bà Nguyễn Thị K.
- Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị K trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
- Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị K trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
2/ Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị K phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm, được trừ vào số tiền ứng án phí bà K đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai số 0006579, ngày 15/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà K đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí.
3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải Thi hành án có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 13/2018/HNGĐ-ST ngày 30/3/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 13/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/03/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về