TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 13/2018/DS-ST NGÀY 17/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ HỤI
Ngày 17 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 346/2017/TLST- DS, ngày 04 tháng 10 năm 2017 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 916/2017/QĐXX-ST ngày 12 tháng 4 năm 2017, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1945 (có mặt) Địa chỉ: Ấp Cỏ Xước, xã Lợi An, huyện A, tỉnh B.
Bị đơn: Chị Lâm Thị T, sinh năm 1968 (có mặt) Địa chỉ: Trương Phùng Xuân, khóm 6, phường 8, thành C, tỉnh D. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đặng Văn P (vắng mặt) Địa chỉ: Số Trương Phùng Xuân, khóm 6, phường 8, thành C, tỉnh D.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:
Bà H có vay dùm chị T số tiền 10.000.000 đồng với lãi suất 5%/ tháng, chị T đóng lãi đến ngày 24/8/2016 thì ngưng đến nay. Nay bà yêu cầu bà T trả vốn 10.000.000 đồng và đóng lãi 500.000 đồng/tháng x 17 tháng = 8.500.000 đồng. Tổng cộng 18.000.000 đồng.
Về hụi: Chị T tham gia 03 chân hụi, loại hụi 500.000 đồng, cụ thể:
Dây hụi 500.000 đồng gồm 28 chân mở ngày 10/02/2016 al đến ngày 10/4/2018 al thì mãn, chị T đã hốt 01 chân hụi, đóng đến 10/7/2016 al thì ngưng đến nay. Do chị T không đóng hụi nên bà phải chịu lãi trên số tiền 100.000đ/tháng x 16 tháng = 1.600.000 đồng. Tổng cộng 16.000.000 đồng.
Dây hụi 500.000 đồng gồm 23 chân mở ngày 15/3/2016 al đến ngày 25/12/2017 al thì mãn, chị T tham gia 02 chân và đã hốt 02 chân hụi, đóng đến ngày 10/7/2016 al thì ngưng đến nay. Do chị T không đóng hụi nên bà phải chịu lãi. Tổng cộng 31.200.000 đồng.
Đến tháng 3/2017 chị T trả 1.500.000 đồng, tháng 6/2017 chị T trả 6.000.000 đồng.
Nay bà Nguyễn Thị H yêu cầu chị Lâm Thị T và anh Đặng Văn P phải trả cho bà số tiền hụi bà đã đóng của 02 dây gồm 03 chân hụi 500.000 đồng và tiền lãi vay để đóng hụi, tiền vay dùm cho chị T để trị bệnh cho con với tổng số tiền là 65.000.000 đồng, trừ đi số tiền T đã đưa cho bà là 7.500.000 đồng, còn lại 57.500.000 đồng.
Quá trình hòa giải và tại phiên tòa hôm nay bà H xác định chỉ yêu cầu chị T thanh toán số tiền trên cho bà, bà không yêu cầu anh P cùng có nghĩa vụ thanh toán số tiền trên.
* Bị đơn Chị Lâm Thị T trình bày:
- Do hoàn cảnh khó khăn nên chị có nhờ mẹ chị là bà H vay dùm chị 03 lần với tổng số tiền là 10.000.000 đồng với lãi suất 05%/tháng. Chị không nhớ thời gian vay nhưng chị có đóng lãi đến 24/7/2017, chị ngưng đóng lãi từ tháng 8/2017 đến nay, đối với số tiền lãi đã đóng trước đây chị không yêu cầu xem xét lại. Do bà H vay dùm nên chị đồng ý theo yêu cầu của bà H về việc thanh toán nợ vay tổng cộng là 18.500.000 đồng (tiền gốc là 10.000.000 đồng và tiền lãi 500.000 đồng/tháng x 17 tháng = 8.500.000 đồng.) - Chị thừa nhận có nhờ bà H (mẹ chị) chơi hụi dùm tổng cộng 03 chân, cụ thể:
Dây hụi 500.000 đồng gồm 28 chân mở ngày 10/02/2016 al, chị tham gia 01 chân hụi, chị hốt và đóng hụi chết đến 10/7/2016 al thì ngưng đến nay còn lại 11 tháng = 5.500.000 đồng chưa đóng cho bà Hồng.
Dây hụi 500.000 đồng gồm 23 chân, chị tham gia 02 chân, chị hốt và đóng hụi chết đến ngày 10/7/2016 al thì ngưng đến nay còn lại 13 tháng = 13.00.000 đồng chưa đóng cho bà H.
Đến tháng 3/2017 chị có thanh toán cho bà H 1.500.000 đồng, tháng 6/2017 chị thanh toán tiếp 6.000.000 đồng để trừ vào tiền hụi.
Nay chị đồng ý thanh toán cho bà H tiền vay và tiền hụi cho đến khi mãn hụi là 18.500.000 đồng. Tổng cộng tiền hụi và tiền vay còn thiếu bà H là 36.500.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Sau khi nghe ý kiến trình bày của các đương sự và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự được xác định là tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hụi.
Bà Hồng và chị T thống nhất với nhau là chị T có nhờ bà H vay dùm chị T số tiền 10.000.000 đồng và tham gia chơi dùm chị T 03 chân hụi loại hụi 500.000 đồng là thực tế.
[2] Đối với số tiền vay, chị T có nhờ bà H đi vay tiền dùm 03 lần với tổng số tiền là 10.000.000 đồng lãi suất 5%/ tháng việc bà H đi vay tiền của người khác thay cho chị T là do chị T nhờ nên hàng tháng chị T có nghĩa vụ đóng lãi cho bà H để bà H đóng lãi cho chủ nợ và chị T đã đóng được một thời gian nhưng không nhớ cụ thể, đến 24/8/2017 thì ngưng đến nay. Do chị T không đóng lãi nên bà H phải bỏ tiền ra đóng thay cho chị T, bản thân chị T biết và thừa nhận vấn đề này nên thống nhất mức lãi suất trên mà không yêu cầu xem xét lại. Nay bà H yêu cầu chị T thanh toán số tiền vay là 10.000.000 và đóng lãi 500.000 đồng/tháng từ khi ngưng đến ngày xét xử sơ thẩm là 17 tháng = 8.500.000 đồng. Tổng cộng bà H yêu cầu chị T thanh toán tiền vay và lãi là 18.500.000 đồng, chị T chấp nhận và đồng ý thanh toán số tiền trên cho bà H, nên ghi nhận sự sự nguyện của các đương sự là phù hợp.
[3] Đối với tiền hụi: Bà H có chơi dùm chị T 03 chân hụi loại hụi 500.000 đồng/tháng, cả 03 chân hụi trên chị Thuận đã hốt toàn bộ nên chị T có nghĩa vụ đóng lại hụi chết cho bà H để bà Hồng đóng lại cho chủ hụi. Tuy nhiên việc bà Hồng yêu cầu chị T đóng hụi chết và đóng lãi trên số tiền hụi bà đã bỏ ra để đóng hụi cho chị T, cụ thể, 1.000.000 đồng tiền hụi thì lãi là 100.000 đồng/tháng x thời gian chưa đóng hụi. Do bà H cho rằng bà phải đi vay của người khác để đóng lại tiền hụi cho chị Thuận, chị T không thừa nhận có nhờ bà H vay tiền để đóng hụi và cũng không đồng ý thanh toán lãi trên số tiền hụi. Nên việc bà H tính lãi trên số tiền hụi chưa đóng là không có căn cứ chấp nhận.
[4] Do đó, chị T có nghĩa vụ thanh toán lại cho bà H số tiền hụi chưa đóng đến khi mãn hụi, cụ thể:
Dây hụi 500.000 đồng gồm 28 chưng mở ngày 10/02/2016 al, đã hốt 01 chân, đóng đến 10/7/2016 al là đóng được 05 lần thì ngưng, còn lại 22 tháng = 11.000.000 đồng chưa đóng cho bà H.
Dây hụi 500.000 đồng gồm 23 chưng, mở ngày 15/3/2016 al, đã hốt 02 chân hụi, đóng đến ngày 10/7/2016 al là đóng được 3 lần thì ngưng. còn lại 18 tháng = 18.00.000 đồng chưa đóng cho bà H. Tổng cộng tiền hụi còn thiếu bà H là 29.000.000 đồng. Đến tháng 3 và tháng 6 năm 2017, chị T đưa tiếp cho bà H 7.500.000 đồng để trừ vào tiền hụi. Như vậy chị T còn nợ bà H tiền hụi là 29.000.000 đồng – 7.500.000 đồng = 21.500.000 đồng. Tổng cộng tiền hụi và tiền vay chị T còn phải thanh toán cho bà Hlà 40.000.000 đồng. Quá trình hòa giải và tại phiên tòa hôm nay bà H xác định chỉ yêu cầu chị T thanh toán số tiền trên cho bà, bà không yêu cầu anh P cùng có nghĩa vụ thanh toán số tiền trên, chị T đồng ý thanh toán số tiền trên cho bà H nên ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự về trách nhiệm thanh toán nợ là của chị T là phù hợp.
[5] Không chấp nhận một phần yêu cầu của bà H về phần lãi của số tiền hụi chị T chưa thanh toán đối với số tiền chênh lệch 17.500.000 đồng Án phí dân sự sơ thẩm: bà Nguyễn Thị H là vợ của liệt sĩ Lâm Minh C theo quy định của pháp luật bà H được miễn toàn bộ án phí dân sự.
Chị T phải chịu án phí đối với số tiền phải thanh toán theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 463, 466, 468 và Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 12, 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Buộc chị Lâm Thị T có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị số tiền hụi và tiền vay là 40.000.000 đồng( vốn vay là 10.000.000 đồng + lãi là 8.500.000 đồng và hụi là 21.500.000 đồng) Kể từ ngày bà H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chị T không tự nguyện thi hành xong, thì phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự.
- Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị H về việc yêu cầu chị Lâm Thị T thanh toán số tiền lãi là 17.500.000 đồng 2. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
- Chị Lâm Thị T phải nộp số tiền 2.000.000 đồng (chưa nộp), nộp tại chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau - Bà Nguyễn Thị H được miễn toàn bộ án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 13/2018/DS-ST ngày 17/01/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hụi
Số hiệu: | 13/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 17/01/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về