TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 13/2017/HSST NGÀY 07/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 07 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2017/HSST ngày 16 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
Lò Văn Đ; tên gọi khác: Không; SN: 1992; nơi cư trú: Bản ThB, xã T, huyệnThuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá:9/12; Con ông: Lò Văn Kh - SN: 1968 và bà Lò Thị G – SN: 1970; bị cáo chưa cóvợ; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 08/8/2017 cho đến naycó mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 15 giờ 10 phút ngày 08/8/2017, tại khu vực bản Thẳm B, xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đã phát hiện bắt quả tang đối tượng Lò Văn Đ ( SN: 1992, trú tại bản Th B, xã T, huyện Thuận Châu ) về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vật chứng thu giữ gồm:
- 02 gói giấy màu trắng có chữ in màu đỏ ( Loại giấy ghi vé xổ số lô tô ) bên trong mỗi gói đều có chứa chất bột cục màu trắng ( Theo đối tượng Đ khai là Heroin);
- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobell, vỏ màu hồng nhạt, mặt trước bị vỡ, số IMEL 1: 510031600076077, số IMEL 2: 510032600076075.
Kết quả cân tịnh số bột màu trắng thu giữ của đối tượng Đ, có trọng lượng0,44 gam, rút 0,05 gam ký hiệu Đ1 làm mẫu vật gửi giám định, số còn lại là 0,39gam ký hiệu Đ2 đã niêm phong.
Tại bản Kết luận giám định số: 817/KLMT ngày 11/8/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu chất bột màu trắng ký hiệu Đ1 gửi giám định là chất ma túy; Loại chất Heroin; trọng lượng của mẫu gửi giám định là0,05 gam. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 0,44 gam loại chất Heroin.
Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, bị can Lò VănĐ đã khai nhận như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 08/8/2017, Lò Văn Đ dùng điện thoại di động gọi từ nhà mình đến một người đàn ông tên H, nhà ở bản Thẳm A, xã Tông lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, hỏi mua 02 gói Heroin với giá 50.000đ/1 gói đồng thỏa thuận địa điểm giao nhận ma túy tại khu vực quán điện tử Dụng – Sơn, thuộc bản Thẳm B, xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu. Sau khoảng 30 phút, thì Đ và người đàn ông tên H gặp nhau trước quán điện tử Dụng – Sơn, Đ đưa người đàn ông tên H 100.000 và được người đàn ông đó đưa đưa lại cho Đoàn 02 gói Heroin được gói bằng loại giấy ghi xổ số lô tô. Đ dấu 02 gói Heroin vừa mua được trong túi quần đằng trước đang mặc rồi đi vào trong quán điện tử ngồi chơi. Trong khi Đ đang chơi điện tử thì có 01 nam thanh niên tiên Ch ( Nhà ở bản L, xã Th, huyện Thuận Châu ) hỏi Đ có ma túy không ?, nếu có thì cho người đó sử dụng cùng ?, Đ trả lời là có và bảo Ch đi lên khu vực hang Bản Thẳm để cùng nhau sử dụng ma túy, tuy nhiên trong khi Đ và Ch đang di chuyển đến khu vực hang bản Thẳm B bằng xe máy của Chung, thì bị tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, yêu cầu dừng xe kiểm tra, đối tượng Ch điều khiển xe máy trốn thoát, riêng Lò Văn Đ ngồi sau xe máy bị tổ công tác khống chế, bắt giữ cùng vật chứng là 02 gói Heroin đang cất dấu trong người như đã nêu ở trên.
Tại bản Cáo trạng số: 159/KSĐT ngày 16/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Lò Văn Đ về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự;
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, giữ quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn Đ, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194 - điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7 - điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015;
- Tuyên bố bị cáo Lò Văn Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 18 tháng tù.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.
Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: Vật chứng là 0,39 gam Heroin ( Số còn lại sau khi trích rút 0,05 gam gửi giám định );
- Tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.
Tại phiên tòa bị cáo ( Đ ) có ý kiến: Thừa nhận ngày 08/8/2017 do bản thân nghiện ma túy nên đã tìm mua ma túy về sử dụng và bị phát hiện bắt quả tang như bản Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Nay đã biết tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về nội dung: Ngày 08/8/2017, bị cáo Lò Văn Đ ( Có căn cước lý lịch như trên ) đã bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý ( 0,44 gam Heroin ) với mục đích để sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Kết luận giám định về ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn Đ đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại Điều 194 BLHS năm 1999 quy định:
“ 1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi; Hành vi bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Cụ thể hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước hết xâm hại đến chính sức khỏe của bị cáo, sau là hành vi tiếp tay cho các loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển . . . trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội. Vận dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự, có mức hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính nghiêmminh của pháp luật về tội phạm và hình phạt.
[4] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng bị áp dụng.
[5] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn. Nên được áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS.
[6] Xét tội tội danh bị cáo đang bị xét xử (Tàng trữ trái phép chất ma túy ) thuộc trường hợp quy định tại: Nghị quyết số: 41/2017/QH14 của Quốc hội; Khoản 3 Điều 7 - điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015; theo hướng xét xử có lợi cho bị cáo bởi: So sánh mức hình phạt về cùng tội danh theo quy định tại khoản 1 Điều194 Bộ luật hình sự năm 1999 ( Từ 02 năm đến 07 năm tù ) với điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 ( Từ 01 năm đến 05 năm tù ), thì mức hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015, là có lợi cho người phạm tội. Do vậy cần áp dụng các quy định pháp luật đã viện dẫn ở trên đối với bị cáo.
[7] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự.
[8] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 194 BLHS. Căn cứ vào kết quả xác minh xác định bị cáo không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng.
[9] Xử lý vật chứng:
- Vật chứng là 0,39 gam Heroin ( Số còn lại sau khi trích rút 0,05 gam gửi giám định ) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo đồng thời là vật nhà nước cấm lưu hành. Cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS; để tuyên tịch thu tiêu hủy.
- Vật chứng là 01 chiếc điện thoại di động, bị cáo khai nhận đã sử dụng để liên lạc mua ma túy. Cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS; để tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước.
[10] Đối với nguồn gốc 0,44 gam Heroin bị bắt giữ, theo bị cáo Đ khai do mua của đối tượng Lường Văn H, trú tại bản Thẳm A, xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Quá trình điều tra bằng biện pháp đối chất, đối tượng H không thừa nhận việc bán 0,44 gam Heroin cho bị cáo Đ. Xét ngoài lời khai của bị cáo ra thì không còn chứng cứ gì thêm để chứng minh, do vậy không có cơ sở xử lý đối tượng về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
[11] Đối với người thanh niên tên Ch, theo bị cáo Đ khai: Là người xin bị cáo cho sử dụng ma túy cùng và sử dụng xe máy chở bị cáo đến hang bản thẳm B, xã Tông Lạnh, để sử dụng ma túy. Kết quả điều tra tại bản Lụa, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, không có người nào tên Ch có đặc điểm nhận dạng như lời khai của bị cáo. Do vậy cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra, xử lý.
[12] Bị cáo thuộc hộ gia đình nghèo. Do đó được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
[13] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 231, 234 Bộ luật tố tụng hình sự;
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Lò Văn Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
2. Về hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 194 - điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 - điểm c khoản 1Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015;
- Xử phạt bị cáo Lò Văn Đ 15 ( Mười lăm ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 08/8/2017 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).
* Tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày, kể từ ngàytuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.
3. Xử lý vật chứng:
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: Bột cục màu trắng là chất ma túy, loại chất Heroin có trọng lượng: 0,39 gam ( Không phẩy hai mươi gam ), ký hiệu Đ2, được niêm phong trong phong bì thư.
- Tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell, vỏ màu hồng nhạt, mặt trước bị vỡ, số IMEL 1: 510031600076077, số IMEL 2: 510032600076075, đã qua sử dụng.
4. Án phí:
Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Miễn nộp toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.
5. Quyền kháng cáo:
Áp dụng các Điều 231, 234 Bộ luật tố tụng hình sự;
Báo cho bị cáo biết quyền được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 13/2017/HSST ngày 07/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 13/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về