TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 13/2015/HSST NGÀY 23/06/2015 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐIỀU KHIỂN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 23 tháng 6 năm 2015 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hòa An, Cao Bằng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 10/2015/HSST ngày 04 tháng 5 năm 2015 đối với bị cáo: Nguyễn Văn H; Sinh ngày 25 tháng 12 năm 1994 tại xã V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng;
Nơi cư trú: Xóm B, xã V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng;
Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Tày; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị L; Vợ, con: Chưa;
Anh chị em ruột: Bị cáo là con một trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ, tạm giam: Không;
Hiện nay, bị cáo đang được tại ngoại tại nơi cư trú; Có mặt tại phiên toà. Người bị hại: Bà Bế Thị L; Sinh năm: 1955 (Đã chết);
Người đại diện hợp pháp của người bị hại:
- Ông: Hoàng Quốc H; Sinh năm: 1979 (là con của người bị hại) Nơi cư trú: Bản S, xã B, huyện H, tỉnh Cao Bằng; Có mặt
- Bà: Hoàng Thị H1; Sinh năm: 1982 (là con của người bị hại)
Nơi cư trú: Phố V, phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng;
- Bà: Hoàng Thị H2; Sinh năm: 1990 (là con của người bị hại) Nơi cư trú: Bản S, xã B, huyện H, tỉnh Cao Bằng;
Bà Hoàng Thị H1 và bà Hoàng Thị H2 uỷ quyền cho ông Hoàng Quốc H làm người đại diện tham gia tố tụng tại phiên tòa.
NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn Văn H bị Viện kiểm sát nhân huyện Hoà An, Cao Bằng truy tố về hành vi như sau: Vào khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 17 tháng 01 năm 2015, bị cáo H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 11F3-6233 có chở theo Nông Văn N theo hướng từ thị trấn N, huyện H, Cao Bằng đi thành phố C, Cao Bằng. Khi đi đến Km 14 + 300 đường Hồ Chí Minh thuộc địa phận Khu Giữa, thị trấn N, huyện H, Cao Bằng, do đi xe với tốc độ nhanh, không làm chủ tốc độ nên xe mô tô do bị cáo H điều khiển đã đâm vào bà Bế Thị L đang điều khiển xe đạp đi phía trước; hậu quả làm bà L chết ngay tại chỗ.
Sau khi tai nạn xảy ra, gia đình người bị hại không yêu cầu khám nghiệm tử thi nên Công an huyện Hòa An đã bàn giao thi thể bà L cho gia đình để mai táng. Đến ngày 23 tháng 01 năm 2015, đại diện gia đình bị cáo đã đến thăm hỏi, chia buồn đối với gia đình người bị hại. Đồng thời hai bên đã tự nguyện thỏa thuận về việc bồi thường thiệt hại với số tiền là 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng). Đại diện gia đình người bị hại là ông Hoàng Quốc H đã nhận đủ số tiền và cam kết không có khiếu kiện gì về sau.
Tại Bản cáo trạng số: 10/KSĐT, ngày 20 tháng 4 năm 2015 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoà An, Cao Bằng đã truy tố bị cáo: Nguyễn Văn H về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 2 Điều 202 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo H và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 202; Điểm b, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo H từ 36 (Ba mươi sáu) đến 42 (Bốn mươi hai) tháng tù; đồng thời đề nghị áp dụng Điều 42 của Bộ luật hình sự, đề nghị tịch thu, sung quỹ Nhà nước chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11F3-6233.
Tại phiên tòa, bị cáo H không có ý kiến tranh luận với Bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng án treo và hoàn trả lại chiếc xe mô tô đã bị tạm giữ cho bị cáo.
Tại phiên toà, người đại diện theo ủy quyền cho những người đại diện hợp pháp của người bị hại là ông Hoàng Quốc H đã xác nhận gia đình bị cáo H đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình ông với tổng số tiền là 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng); nay ông không có yêu cầu gì thêm.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
XÉT THẤY
Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, qua đó đã chứng minh được vào chiều ngày 17 tháng 01 năm 2015, bị cáo cùng nhóm bạn uống rượu tại quán nước K ở thị trấn N, huyện H, Cao Bằng đến khoảng 17 giờ 30 phút thì giải tán, ra về. Khi đó, có Nông Văn G là người cùng xóm với H, bảo H đi theo xe của G, còn xe của H để cho Nông Văn N điều khiển; nhưng H đã từ chối với lý do là N đã say rượu. Sau đó, N ngồi lên sau xe mô tô do H điều khiển đi về hướng thành phố C, Cao Bằng. Trên đường đi, H có gặp bạn là D và được mời đi uống trà đá. H đồng ý và D đi trước, H đi xe theo sau. Khi đến đoạn đường nhánh rẽ vào chợ N, H nhìn thấy ở phía trước khoảng 10 mét có người phụ nữ là bà (Bế Thị L) đang đi xe đạp rẽ sang đường để vào chợ, H liền tăng ga điều khiển xe phóng vọt lách lên để vượt qua đầu xe của người đi xe đạp. Do đi với tốc độ nhanh, không xử lý kịp nên xe của H đã va vào bánh trước xe đạp của bà L làm xe đạp và cả bà L đổ ngã trượt theo hướng chuyển động của xe trên đường, hậu quả làm bà L chết ngay tại chỗ.
Ngay sau khi vụ tai nạn xảy ra, Công an huyện Hòa An đã tiến hành khám đo nồng độ cồn đối với bị cáo H. Kết quả nồng độ cồn của bị cáo H là 0,515mg/l khí thở. Theo Biên bản khám nghiệm hiện trường tiến hành vào hồi 18 giờ, ngày 17 tháng 01 năm 2015 của Công an huyện Hòa An đã xác định hiện trường vụ tai nạn là đường hai chiều, mặt đường khô, bằng phẳng, không bị che khuất tầm nhìn, đường có biển báo, có lề đường và vỉa hè hai bên; lòng đường rộng 6,70 mét; lề phải rộng 0,25 mét; lề trái rộng 0,5 mét; vỉa hè hai bên đường rộng 2,2 mét. Đầu xe mô tô biển kiểm soát 11F3-6233 quay hướng về thành phố C, toàn bộ sườn xe và tay nắm trái nằm tiếp xúc với mặt vỉa hè bên trái đường; nạn nhân Bế Thị L nằm ngửa bất động tại hiện trường, đầu hướng theo chiều về thành phố C, sườn xe đạp bên trái tiếp xúc với mặt đường. Vị trí số 1 là điểm chạm đầu tiên có vết cày đứt đoạn trắng mờ kéo dài nằm bên phải đường theo hướng thành phố C – huyện H1 có kích thước dài 6,25 mét, rộng 01 cm, điểm kết thúc dưới chân bàn đạp bên trái của xe đạp; khoảng cách từ điểm đầu vết cày đứt đoạn vị trí số 1 đến mép ngoài vạch sơn bên phải đường là 2,35 mét; điểm cuối vết cày dưới bàn đạp xe đạp cách mép ngoài vạch sơn bên phải đường là 1,6 mét.
Vị trí số 2 là vị trí của xe đạp nằm đổ nghiêng bên trái, đầu xe hướng về thành phố C, hơi chếch sang phải, khoảng cách từ tâm trục bánh trước đến mép ngoài vạch sơn bên phải đường là 2,1 mét; khoảng cách từ tâm trục bánh sau đến mép ngoài vạch sơn bên phải đường là 1,3 mét.
Vị trí số 3 là nạn nhân Bế Thị L nằm ngửa trên mặt đường, đầu hướng về thành phố C; khoảng cách từ đỉnh đầu đến mép ngoài vạch sơn bên phải đường là 01 mét; khoảng cách từ gót chân đến mép ngoài vạch sơn bên phải đường là 1,2 mét.
Vị trí số 4 là vết cày liền do xe mô tô biểm kiểm soát 11F3-6233 tạo ra trên vỉa hè có kích thước 0,8 mét x 0,6 mét.
Vị trí số 5 là xe mô tô biểm kiểm soát 11F3-6233 đổ nghiêng trên vỉa hè bên phải đường, theo hướng từ thành phố C đi huyện H1. Vị trí số 6 là vết máu của nạn nhân chảy từ vùng đầu sang mép đường bên phải; vệt máu không rõ hình có kích thước 1,6 mét x 0,6 mét. Ngoài ra, cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm đối với phương tiện liên quan gồm xe mô tô biểm kiểm soát 11F3-6233 và xe đạp của nạn nhân; đồng thời tiến hành định giá để xác định thiệt hại đối với chiếc xe đạp của nạn nhân. Theo kết luận của Hội đồng định giá, chiếc xe đạp bị thiệt hại là 100.000đ (Một trăm nghìn đồng).
Như vậy, bị cáo Nguyễn Văn H đã có hành vi điều khiển xe mô tô, do không làm chủ tốc độ đã gây ra tai nạn, đâm vào người đi xe đạp cùng chiều phía trước gây hậu quả làm chết một người. Bị cáo điều khiển xe mô tô sau khi đã sử dụng rượu với nồng độ cồn 0,515mg/l khí thở là vượt quá giới hạn cho phép; đồng thời bị cáo điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh lớn hơn 50cm3 mà không có Giấy phép lái xe theo quy định. Hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định về trật tự, an toàn giao thông đường bộ gây ra tai nạn làm chết người. Do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra.
Từ những nhận định và các chứng cứ nêu trên đã có đầy đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 202 của Bộ luật hình sự.
Xét tính chất mức độ và hậu quả hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, thấy rằng bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu với lỗi vô ý. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ rõ sự ăn năn hối cải. Sau khi tai nạn xảy ra, bị cáo và gia đình đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại các điểm b, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Đại diện gia đình người bị hại đã có ý kiến xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự; Do vậy, áp dụng hình phạt ở mức khởi điểm của khung hình phạt là tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện; Bị cáo là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, do vậy xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội vẫn đảm bảo việc giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo cũng như phòng ngừa chung đối với xã hội.
Về việc bồi thường thiệt hại:
Bị cáo H cùng gia đình đã thỏa thuận với đại diện của người bị hại trong giai đoạn điều tra với tổng số tiền đã bồi thường là 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng); Tại phiên tòa, ông Hoàng Quốc H là người đại diện hợp pháp của người bị hại đã chết, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền cho những người đại diện hợp pháp khác của người bị hại đã không đưa ra yêu cầu gì thêm về phần bồi thường thiệt hại, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét thêm về phần bồi thường thiệt hại.
Về việc xử lý vật chứng:
Đối với vật chứng của vụ án là chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11F3-6233 là phương tiện đã gây ra tại nạn và Giấy đăng ký xe đang bị tạm giữ; Xét thấy chiếc xe này là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bị cáo, do vậy cần hoàn trả cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối với chiếc xe đạp của nạn nhân Bế Thị L, cơ quan điều tra đã xử lý trong giai đoạn điều tra, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án và theo quy định tại Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
- Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 202; Điểm b, p khoản 1; khoản 2 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật hình sự.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 36 (Ba mươi sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (Sáu mươi) tháng; Thời gian thử thách được tính kể từ ngày tuyên án ngày 23 tháng 6 năm 2015.
Giao bị cáo Nguyễn Văn H cho Uỷ ban nhân dân xã V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
2. Về việc bồi thường thiệt hại:
Xác nhận bị cáo Nguyễn Văn H và gia đình đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại do ông Hoàng Quốc H là người đại diện với số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) theo Biên bản thỏa thuận ngày 23/01/2015.
3. Về xử lý vật chứng:
- Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 42 của Bộ luật hình sự: Hoàn trả cho bị cáo Nguyễn Văn H 01 (Một) xe mô tô biển kiểm soát 11F3-6233 và 01 Giấy đăng ký xe mang tên Đàm Quang Hùng;
Vật chứng của vụ án do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa An, Cao Bằng quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02 tháng 4 năm 2015.
4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.
Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Những người đại diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án./.
Bản án 13/2015/HSST ngày 23/06/2015 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 13/2015/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/06/2015 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về