TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 130/2022/HS-ST NGÀY 02/12/2022 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 02 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 102/2022/HS-ST ngày 24 tháng 10 năm 2022.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2022/QĐXXST-HS, ngày 09 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:
TRẦN THỊ THU N2, sinh ngày 07/12/1970; Tại T, tỉnh Yên Bái; Nơi đăng ký thường trú: Tổ G, ấp C, xã G, thành phố P, tỉnh Kiên Gian; Nơi tạm trú: Tổ E, ấp S, xã D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Kinh doanh tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Trần Đình N (chết) và bà Hà Thị L (chết) Anh, chị, em ruột: Có 05 người, lớn nhất sinh năm 1962, nhỏ nhất sinh năm 1978; Chồng: Phạm Văn N1, sinh năm 1984 (đã ly hôn); Con: 02 người, lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 1992; Tiền sự, tiền án: Không.
Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 25/12/2021, Trần Thị Thu N2 gọi vào số điện thoại 0348717xx5 qua tin nhắn trên điện thoại để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả đem cầm cố lấy tiền tiêu xài. Sau khi gọi điện xong, N2 chuyển tiền đặt cọc 1.000.000 đồng vào tài khoản mang tên Nguyễn Chí T (hiện nay không rõ ở đâu) và Cung cấp giấy tờ và thông tin sơ đồ thửa đất gửi qua tài khoản zalo “Làm sổ đỏ”. Đến ngày 14/11/2022, N2 nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất giả số 16345, thửa số 32, 33 tờ bản đồ số 59 diện tích 220m2 địa chỉ tại đường C, ấp S, xã D, huyện P, tỉnh Kiên Giang do Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh K cấp ngày 10/02/2021, mang tên Trần Thị Thu N2 do nhân viên shiper giao, đồng thời Năng trả hết số tiền làm giấy giả còn lại là 11.000.000 đồng. Đến ngày 19/11/2022, N2 gọi điện thoại cho Nguyễn Văn Q nhờ Q giới thiệu người cầm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Q đồng ý. Đến khoảng 09 giờ ngày 20/01/2022, N2 đến điểm hẹn tại quán C trên đường N, thuộc khu phố E, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang gặp anh Nguyễn Trọng S do Q giới thiệu để thoả thuận về việc N2 muốn cầm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của N2 cho anh S, anh S kiểm tra nghi ngờ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của N2 là giả nên anh S gọi điện thoại tố giác Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố P. Ngày 18/5/2022, Trần Thị Thu N2 bị Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố P khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú để triều tra.
Tang vật vụ án thu giữ gồm: 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số 163245, do Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh K cấp ngày 10/02/2021, mang tên Trần Thị Thu N2, sinh năm 1972; địa chỉ thường trú: Tổ G, ấp C, xã G, huyện P, tỉnh Kiên Giang.
Tại bản kết luật giám định số: 223/KL-PY ngày 31/3/2022, của Phòng K - Công an tỉnh K kết luận: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số: BS 163245 (ký hiệu A) là giả.
Tại Cáo trạng số: 120/CT-VKSPQ ngày 14/10/2022, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc đã truy tố bị cáo Trần Thị Thu N2 về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Thị Thu N2 về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Thị Thu N2 từ 06 đến 09 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả cần thu giữ để bảo quản trong hồ sơ vụ án.
Đối với Nguyễn Chí T không rõ nhân thân, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố P, tỉnh Kiên Giang, tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị Thu n không có ý kiến gì với bản kết luận giám định; Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang; Lời nói sau cùng, bị cáo không có ý kiến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra. Xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa, xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P. Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện công khai hợp pháp, đúng pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo Trần Thị Thu N2 đã khai nhận vì mong muốn và có nhu cầu vay tiền nên vào khoảng 09 giờ ngày 20/11/2022, bị cáo Trần Thị Thu N2 có hành vi liên hệ đối tượng trên mang internet và cung cấp các thông tin để thuê làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, mang tên Trần Thị Thu N2 với giá 12.000.000 đồng. Sau khi thanh toán và nhận giấy giả này gặp Nguyễn Trọng S tại quán cà phê Thoáng trên đường N, thành phố P để thoả thuận cầm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì kiểm tra phát hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy giả. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả giám định và tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như vật chứng đã thu giữ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên là hành vi trái pháp luật nên có đủ cơ sở cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” được quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến việc quản lý hành chính sự hoạt động đúng đắn, bình thường uy tín của Nhà nước trong quản lý hành chính. Ngoài ra còn làm phức tạp thêm về trật tự an toàn công cộng. Bởi vì bị cáo đưa vào một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả với mục đích vi phạm pháp luật khác. Do đó, cần phải xử phạt nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo; phòng chống phạm tội những hành vi tương tự khác có thể xảy ra.
[3] Xét tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bản thân bị cáo sinh ra trong gia đình có công với cách mạng, cha và mẹ bị cáo là người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, mẹ bị cáo được Nhà nước tặng huân chương kháng chiến hạn nhì. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét cần áp dụng Điều 36 Bộ luật hình sự xử cải tạo không giam giữ đối với bị cáo là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo. Áp dụng khoản 3 Điều 36 Bộ luật hình sự miễn việc khấu trừ thu nhập cho bị cáo do bị cáo không có thu nhập, nghề nghiệp ổn định.
Đối với Nguyễn Chí T không rõ nhân thân, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố P, tỉnh Kiên Giang, tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.
[4] Về xử lý vật chứng: 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả cần thu giữ để bảo quản trong hồ sơ vụ án.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 36 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị Thu N2 phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
1. Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Thu N2, 30 (ba mươi) tháng cải tạo không giam giữ; thời hạn cải tạo không giam giữ tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân xã G, thành phố P, tỉnh Kiên Giang nhận được bản án, quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ của bị cáo Trần Thị Thu N2. Áp dụng khoản 3 Điều 36 Bộ luật hình sự miễn việc khấu trừ thu nhập cho bị cáo do bị cáo không có thu nhập, nghề nghiệp ổn định.
Giao bị cáo Trần Thị Thu N2 cho Ủy ban nhân dân xã G, thành phố P, tỉnh Kiên Giang nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã G, thành phố P, tỉnh Kiên Giang trong việc giám sát, giáo dục.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian chấp hành án, bị cáo phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.
2. Về xử lý vật chứng: Thu giữ 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để bảo quản trong hồ sơ vụ án.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) để sung ngân sách nhà nước.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 130/2022/HS-ST về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức
Số hiệu: | 130/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/12/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về