Bản án 130/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 130/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 132/2021/TLST- HS ngày 08 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 145/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Diễm M, sinh năm 1984 tại Gia Lai; Nơi cư trú: Làng M, xã C, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Khắc G, sinh năm 1948 và bà Vũ Thị Th, sinh năm 1955; bị cáo có chồng là Ksor Y, sinh năm 1981 (đã ly hôn) và có ba con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền sự: Không; tiền án: 01, ngày 22/4/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 14/6/2021 bị cáo tự nguyện đi chấp hành án tại Trạm giam G (chưa được xóa án tích). Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Phạm Hoàng Th, sinh năm: 1954; địa chỉ: Tổ 14, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Diễm M là người có sử dụng ma túy. Qua quen biết ngoài xã hội, M biết đối tượng tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) là người có bán ma túy.

Vào khoảng 11 giờ ngày 01/5/2021, M đang đi trên khu vực ngã tư đường Hùng V – Phan Bội C, thuộc phường Hội Th, thành phố P thì gặp T nên M hỏi mua ma túy đá của T. Tại đây, T đã bán cho M bán 13 ống hút bằng nhựa hai đầu hàn kín bên trong chứa ma túy đá với giá 2.600.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, M cất giấu trong túi áo khoác đang mặc, rồi đi bộ tìm nhà trọ thuê phòng để sử dụng ma túy. Đến 15 giờ 20 phút cùng ngày, khi M đang đi tại đầu hẻm số 95 đường Phùng Khắc K, phường Y thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P kiểm tra, phát hiện bắt quả tang; thu giữ vật chứng, gồm 13 đoạn ống hút bằng nhựa, hai đầu hàn kín, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (được niêm phong theo quy định).

Qua trưng cầu giám định, tại bản Kết luận giám định số 319 ngày 14/5/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Toàn bộ chất màu trắng dạng tinh thể trong 13 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 2,1695 gam”.

Tại Bản Cáo trạng số 138/CT-VKS ngày 06 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Diễm M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị Diễm M và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Diễm M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38; Điều 50, Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Diễm M với mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Tổng hợp hình phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án sơ thẩm số 26/2020/HS-ST ngày 22/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng các Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu hủy: Chất ma túy còn lại sau giám định trong bì công văn ghi số 319/PC09 ngày 14/5/2021 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai.

Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Diễm M phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị Diễm M thừa nhận hành vi bị truy tố, không có ý kiến phản đối về tội danh và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở xác định: Khoảng 15 giờ 20 phút, ngày 01/5/2021 tại hẻm số 95 đường Phùng Khắc Kh, tổ 14, phường Y, thành phố P, Nguyễn Thị Diễm M có hành vi tàng trữ 13 đoạn ống hút nhựa chứa 2,1695 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng. Hành vi đó của bị cáo Nguyễn Thị Diễm M đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.

[3] Bị cáo M là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hoàn toàn nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Do đó cần thiết phải xử lý nghiêm để cải tạo, răn đe, giáo dục, đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm về ma túy, loại tội phạm ảnh hưởng lớn đến trật tự, an toàn xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 22/4/2020 bị cáo M bị Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội; mà trong thời gian bị cáo được hoãn thi hành án do đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi bị cáo lại tiếp tục cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên thuộc trường hợp tái phạm. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, các đặc điểm về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục và răn đe.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không xử phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[8] Đối với đối tượng tên T là người mà bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết được nhân thân, lai lịch của đối tượng này, nên Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh và xử lý sau là phù hợp.

[9] Về vật chứng: Các chất ma túy hiện đang thu giữ thuộc loại cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Bị cáo Nguyễn Thị Diễm M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Diễm M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50, khoản 2 Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Diễm M 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án sơ thẩm số 26/2020/HS-ST ngày 22/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai. Buộc bị cáo Nguyễn Thị Diễm M phải chấp hành chung cho hai bản án là 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/6/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ các Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: Chất ma túy còn lại sau giám định trong bì công văn ghi số 319/PC09 ngày 14/5/2021 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai.

Các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 117/2021 ngày 22/9/2021 giữa Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai và Chi cục thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Diễm M phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 130/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:130/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;