Bản án 130/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 130/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 332/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 302/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 27 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Mỹ T, sinh năm 1996; có yêu cầu vắng mặt.

Địa chỉ: Số 22/6E, khóm T, phường P, thành phố L, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Ông Trần Bé Đ, sinh năm 1989; vắng mặt.

Địa chỉ: Số 22/6E, khóm T 1, phường P, thành phố L, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 14/5/2019, bản tự khai cùng các lời khai trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là bà Đỗ Thị Mỹ T trình bày: Sau khoảng thời gian tìm hiểu nhau về mặt tình cảm thì bà và ông Trần Bé Đ quyết định tiến đến hôn nhân và có tổ chức lễ cưới vào tháng 6 năm 2015; ông bà có đăng ký kết hôn vào ngày 20/5/2015 và được Ủy ban nhân dân phường P, thành phố L, tỉnh An Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 80/2015, Quyển số 01/2015 ngày 20/5/2015 mang tên ông Trần Bé Đ và bà Đỗ Thị Mỹ T. Hôn nhân lần thứ nhất của bà và ông Đ. Sau khi kết hôn, ông bà chung sống hạnh phúc hơn 03 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cách sống, không tìm được tiếng nói chung; ông Đ không cùng bà xây dựng cuộc sống gia đình. Mặc dù bà có khuyên nhủ nhưng ông Đ vẫn không thay đổi tính tình nên vợ chồng đã chính thức ly thân từ cuối tháng 12 năm 2018 cho đến nay; trong thời gian sống ly thân, vợ chồng không một lần tới lui.

- Về con chung: Ông bà có 02 (hai) con chung tên Trần Ngọc Bé S, sinh ngày 06/6/2015 và Trần Bá Th, sinh ngày 04/9/2017. Hiện nay, hai cháu Trần Ngọc Bé S và Trần Bá Th đang do ông Đ chăm sóc, nuôi dưỡng kể từ khi vợ chồng chính thức ly thân cho đến nay.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nhận thấy tình cảm của bà dành cho ông Đ không còn nên bà có yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Đ. Về con chung, bà đồng ý để ông Đ được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; về cấp dưỡng cho con, bà sẽ cấp dưỡng bên ngoài, yêu cầu không ghi nhận trong phần quyết định của bản án. Về tài sản chung và nợ chung: Bà T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là ông Trần Bé Đ đã được tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án nhưng vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã triệu tập ông Đ đến tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải đến lần thứ hai và triệu tập đến tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng ông Đ vẫn vắng mặt, không rõ lý do.

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án, Nguyên đơn bà Đỗ Thị Mỹ T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt đề ngày 11/9/2020 với lý do bận công việc ở xa.

Bị đơn ông Trần Bé Đ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Bà Đỗ Thị Mỹ T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Bé Đ nên quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình – Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS).

Ông Trần Bé Đ với tư cách là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại khóm Đông T 1, phường P, thành phố L, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang.

Mặc dù Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho ông Đ theo quy định tại Điều 177, Điều 179 BLTTDS nhưng ông Đ vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Xét thấy, sự vắng mặt của ông Đ không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông và không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông Đ là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS.

Bà T có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà Mỹ T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227 BLTTDS.

Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 227; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 BLTTDS, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Đỗ Thị Mỹ T và ông Trần Bé Đ.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Trong quá trình giải quyết vụ án, bà T trình bày, sau khi quen biết, tìm hiểu nhau về mặt tình cảm thì bà và ông Đ quyết định tiến đến hôn nhân và thành vợ chồng; ông bà có tổ chức lễ cưới vào tháng 6 năm 2015 và có đăng ký kết hôn vào ngày 20/5/2015 tại Ủy ban nhân dân phường P, thành phố L, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn, ông bà chung sống hạnh phúc được hơn 03 năm thì đến cuối tháng 12 năm 2018, ông bà phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cách sống, tính tình không phù hợp nhau, ông Đ không cùng bà chăm lo cuộc sống gia đình. Chứng minh cho lời trình bày, bà T có cung cấp cho Tòa án Giấy chứng nhận kết hôn số 80/2015, Quyển số 01/2015 ngày 20/5/2015 của Ủy ban nhân dân phường P, thành phố L, tỉnh An Giang cấp cho ông Trần Bé Đ và bà Đỗ Thị Mỹ T; Giấy khai sinh của cháu Trần Ngọc Bé S, sinh ngày 06/6/2015 và Giấy khai sinh của cháu Trần Bá Th, sinh ngày 04/9/2017. Như vậy, bà T đã thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của BLTTDS. Ngược lại, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định nhưng ông Đ vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không tham dự phiên tòa, không cung cấp bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 91 BLTTDS. Do đó, lời trình bày và chứng cứ mà bà T cung cấp là cơ sở để Tòa án xác định hôn nhân giữa bà T và ông Đ là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận nhưng vì mâu thuẫn gia đình không thể hàn gắn làm cho vợ chồng không còn chung sống, không quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau kể từ tháng 12 năm 2018 đến nay là có thật; cho thấy ông bà đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà T có yêu cầu được ly hôn với ông Đ là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Tòa án chấp nhận.

Về quan hệ con chung: Bà T xác định trong quá trình chung sống, bà với ông Đ có 02 (hai) con chung tên Trần Ngọc Bé S, sinh ngày 06/6/2015 và Trần Bá Th, sinh ngày 04/9/2017. Bà T đồng ý để ông Đ được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục hai con chung.

Xét thấy, từ khi vợ chồng không còn chung sống với nhau cho đến nay, cháu S và cháu Th sinh sống cùng với cha là ông Đ; dưới sự chăm sóc, giáo dục của ông Đ, cả hai cháu đang phát triển bình thường, cho thấy ông Đ có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục hai cháu. Nhận thấy, việc giao hai cháu S và Th phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Tòa án chấp nhận. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì sau khi ly hôn, bà T vẫn có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không được ai cản trở.

Về cấp dưỡng cho con: Quá trình Tòa án giải quyết, do không ghi nhận được ý kiến của ông Đ về việc có hay không có yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không xét đến. Tuy nhiên, vì quyền lợi của con, khi cần thiết một hoặc hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng cho con.

Về quan hệ tài sản chung: Bà T trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu giải quyết, vì vậy Tòa án không xem xét giải quyết nhưng nếu sau này các bên chứng minh vợ chồng có tài sản chung trong thời hôn nhân mà không tự thỏa thuận phân chia được thì có quyền khởi kiện yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn ở vụ án dân sự khác.

Về quan hệ nợ chung: Bà T trình bày vợ chồng không nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng nên không có yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Tòa án cũng không xem xét giải quyết nhưng nếu sau này có bên thứ ba bất kỳ chứng minh được nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bà T vẫn phải cùng ông Đ liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án dân sự khác.

Về án phí: Bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà T đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003129 ngày 09/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh An Giang. Ông Đ không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1, khoản 2 Điều 91; khoản 4 Điều 147; Điều 186; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 56; Điều 81 và khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Đỗ Thị Mỹ T được ly hôn với ông Trần Bé Đ.

2. Về con chung: Ông Trần Bé Đ được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Trần Ngọc Bé S, sinh ngày 06/6/2015 và Trần Bá Th, sinh ngày 04/9/2017, trừ trường hợp thay đổi quyền nuôi con theo quy định của pháp luật. Bà Đỗ Thị Mỹ T được quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung; không ai có quyền ngăn cấm.

Vì quyền lợi của con, khi cần thiết một hoặc hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng cho con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Bà Đỗ Thị Mỹ T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà Đỗ Thị Mỹ T đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003129 ngày 09/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh An Giang. Ông Trần Bé Đ không phải chịu án phí.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 130/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:130/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;