Bản án 129/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 129/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 125/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Tiến C, sinh năm: 1984 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: thôn G, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Đỗ Thị B; có vợ là Bùi Thị T và 03 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Bản án số 479/PTHS ngày 26/3/2003, Tòa phúc thẩm tại Hà Nội xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thụ hình (C được đặc xá tha tù trước thời hạn kể từ ngày 31/01/2005, thi hành xong án phí 50.000 đồng vào ngày 09/6/2010, đã được xóa án tích); bị tạm giữ từ ngày 26/6/2019 đến ngày 28/6/2019 chuyển tạm giam; có mặt.

Người làm chứng: Anh Trần Chí C; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ, ngày 26/6/2019, Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Phòng kết hợp với Công an xã L, huyện Thủy Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực thôn G, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng phát hiện Lê Tiến C có biểu hiện nghi vấn cất giấu trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra, Tổ công tác thu giữ tại túi quần phía trước bên trái C đang mặc có 02 túi nilon màu trắng kích thước 04cm x 06cm đều chứa tinh thể màu trắng (nghi là chất ma túy); tạm giữ của C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng vàng, số tiền 450.000 đồng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade đeo biển kiểm soát 15G1-377.16. Tổ công tác đã đưa C cùng vật chứng thu giữ về trụ sở Công an giải quyết.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Tiến C, thu giữ: Trên kệ ti vi phòng ngủ của C một chai nhựa có nắp màu đỏ đục lỗ được gắn lõ thủy tinh và một ống hút bằng nhựa (C khai là dụng cụ tự chế để sử dụng ma túy đá).

Tại Cơ quan điều tra, Lê Tiến C khai: Do nghiện ma túy nên C thường đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Ngày 23/6/2019, khi C đang chơi ở khu vực thôn Chợ T, xã L, huyện T thì gặp người đàn ông tên T (là bạn cùng nghiện ma túy, không rõ họ, địa chỉ) đi cùng một người đàn ông tên là T (không rõ họ, địa chỉ). Quá trình nói chuyện, T bảo với C T biết chỗ bán ma túy rẻ, nếu mua thì nhờ T mua cho”, C đồng ý và lấy số điện thoại của T. Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 26/6/2019, do cần ma túy để sử dụng nên C gọi điện thoại cho T để hỏi mua ma túy, T đồng ý và bảo C sang khu vực đường T, quận L, thành phố Hải Phòng. Sau đó, C một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15G1-377.16 đến điểm hẹn gặp T. C mua của Tiến 3.300.000 đồng ma túy và về đến khu vực thôn G, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện, bắt giữ cùng vật chứng.

Đối với chiếc xe mô tô đeo biển kiểm soát 15G1-377.16, quá trình điều tra xác định xe mô tô và biển kiểm soát 15G1-377.16 không phù hợp. Xe mô tô có số khung RLHJF2705BY309701 và số máy JF27E-1249312 là số nguyên thủy của nhà sản xuất. Tiến hành tra cứu xác định xe mô tô có đăng ký biển kiểm soát 15B1- 390.08 thuộc sở hữu hợp pháp của chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1984 ở số 13/53/97/96, C, D, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Sau khi tiến hành các hoạt động điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả xe mô tô, nhãn hiệu Honda Airblade cho chị H. Đối với biển kiểm soát 15G1-377.16, tài liệu điều tra xác định là biển số của xe mô tô có số khung JF46E5119715 và số máy RLHJF4616EY419652 chủ sở hữu là anh Lê Văn D, sinh năm 1983 ở tổ dân phố P, thị trấn M, huyện Thủy Nguyên. Anh D đã bán chiếc xe mô tô cho một người không quen biết vào năm 2016, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định chủ sở hữu biển kiểm soát trên nên Cơ quan điều tra tách ra điều tra làm rõ, xử lý sau. Đối với số tiền 450.000 đồng thu của Lê Tiến C, tài liệu điều tra xác định số tiền trên là của C, dùng chi tiêu cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội nên, Cơ quan điều tra đã bàn giao cho chị Bùi Thị T, sinh năm 1984, ở Thôn G, xã L, Thủy Nguyên, Hải Phòng (là vợ của C ) quản lý. Đối với người đàn ông tên T có hành vi bán ma túy cho C và T có hành vi giới thiệu C mua ma túy của T, tài liệu điều tra chưa xác định được căn cước, lai lịch của T và T1. Ngoài lời khai của Cường không có tài liệu chứng cứ nào khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên tách ra để điều tra, làm rõ xử lý sau.

Bản Cáo trạng số 124/CT-VKS ngày 12 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố Lê Tiến C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Tiến C từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 360/2019/PC09 chứa chất ma túy, vỏ túi đựng chất ma túy còn lại sau giám định; 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế; tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng vàng gắn sim số 0904038114. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo Lê Tiến C khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã nêu, lời nói sau cùng bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Hành vi, quyết định tố tụng của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Lê Tiến C khai cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là đúng với hành vi mà bị cáo thực hiện. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người chứng kiến, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác đã được công bố, thẩm tra công khai tại phiên tòa. Tại bản Kết luận giám định số 360/KLGĐ ngày 27/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: số tinh thể màu trắng chứa trong 02 túi nilon màu trắng thu của Lê Tiến C là ma túy, có khối lượng 9,4028 gam, là loại Methamphetamine. Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Tiến C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, vi phạm điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, vi phạm các chính sách pháp luật về phòng chống ma túy, tác động xấu đến kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đạo đức, lối sống, văn hóa, hạnh phúc gia đình và sức khỏe của người khác. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo; bố bị cáo là thương binh; bác ruột là liệt sỹ, hiện tại gia đình C đang thờ cúng là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về phần hình phạt: Nhân thân của bị cáo có một lần bị kết án nay lại tiếp tục phạm tội và căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo nên áp dụng mức hình phạt tù trên mức khởi điểm của khung hình phạt tù là thỏa đáng. Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng bị cáo không có việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: 01 phong bì niêm phong số 360/2019/PC09 đựng chất ma túy và vở bao bì còn lại sau giám định; 01 chai nhựa nắp màu đỏ, gán lỏ thủy tinh và ống hút nhựa (đều đã qua sử dụng ) là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng vàng gắn sim số 0904038114 bị cáo sử dụng trong quá trình phạm tội cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7]. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Tiến C 07 (Bảy) năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 26 tháng 6 năm 2019.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 360/2019/PC09 đựng chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định; 01 chai nhựa nắp màu đỏ, gắn lỏ thủy tinh và ống hút nhựa (đều dã qua sử dụng). Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng vàng gắn sim số 0904038114 (Chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17 tháng 10 năm 2019 và phiếu nhập kho số NK2020/06 ngày 17 tháng 10 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTTQH của ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Tiến C phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Lê Tiến C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

435
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 129/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:129/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;