TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 129/2019/HSPT NGÀY 18/10/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Ngày 18 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 192/2019/TLPT-HS ngày 20 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo Vũ Thị T, do có kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của VKSND huyện Gia Lộc, Hải Dương đối với bản án hình sự sơ thẩm số 59/2019/HSST ngày 09/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
* Bị cáo có kháng cáo và bị kháng nghị:
Vũ Thị T, sinh năm 1968 tại xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Vũ Đăng K (đã chết) và bà Trần Thị T (đã chết); Chồng Trần Văn A (đã chết), có 02 con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 1998; Tiền án, Tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 12/2009/HSST ngày 22/4/2009 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt Vũ Thị T 12 tháng tù về tội Chứa mại dâm. Ngày 28/02/2010 Thiệp chấp hành xong bản án, đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/4/2019 đến ngày 07/4/2019 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nhà nghỉ T, địa chỉ: thôn D, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương do anh Trần Văn P, sinh năm 1993; trú tại thôn Đ, xã Đ, huyện G là chủ sở hữu. Ngày 10/01/2019 anh P được Phòng Tài chính kế hoạch - UBND huyện Gia Lộc cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, ngành nghề kinh doanh: Kinh doanh nhà nghỉ, giải khát, karaoke, đồ gỗ. Quá trình kinh doanh, do anh P phải giải quyết nhiều công việc, thường xuyên đi vắng nên giao nhà nghỉ cho Vũ Thị T là mẹ đẻ trực tiếp trông coi, quản lý, kinh doanh. Khoảng tháng 3/2019, do T và Trần Thị S, sinh năm 1983 ở cùng thôn có quen biết nhau từ trước, T thỏa thuận với S về việc nếu có khách có nhu cầu mua dâm thì T sẽ gọi cho S để S đến bán dâm, địa điểm mua bán dâm tại nhà nghỉ T, số tiền thu của khách mua dâm là 250.000 đồng/ lượt. Số tiền có được sau khi bán dâm, T được 150.000 đồng, S được hưởng 100.000 đồng. Cũng trong khoảng thời gian này T và Đinh Thị T1, sinh năm 1979; trú tại bản C, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La có thỏa thuận thống nhất về việc T1 là gái bán dâm trong nhà nghỉ, nếu khách đến nhà nghỉ có nhu cầu mua dâm thì T sẽ sắp xếp cho T1 bán dâm cho khách, mỗi khách mua dâm T sẽ thu số tiền 250.000 đồng. Số tiền có được sau khi bán dâm, T được 150.000 đồng, T1 được hưởng 100.000 đồng. Địa điểm mua bán dâm tại nhà nghỉ T (Anh P không biết việc thỏa thuận trên giữa T với S và T1).
Khoảng 14 giờ ngày 01/4/2019, Đỗ Tiến Q, sinh năm 1989; trú tại thôn T, xã K, huyện G, Nguyễn Thế V, sinh năm 1978 trú tại thôn B, xã G, huyện G và Bùi Quý D, sinh năm 1983 trú tại thôn C, xã G, huyện G đều là bạn quen biết, sau khi ăn uống cùng nhau tại thị trấn G xong có thuê xe ô tô tắc xi của anh Phạm Ngọc T, sinh năm 1980; trú tại thôn B, xã T, huyện G đến nhà nghỉ T với mục đích mua dâm. Đến nơi, Q, V, D và T đi vào phòng ăn tầng 1 nhà nghỉ T thì gặp T ở đó. Lúc này, D, Q và V cùng hỏi T về việc “Cho bọn em 3 nhân viên”. Nghe vậy, T hiểu ý nhóm của Q muốn hỏi mua dâm nhân viên nữ của nhà nghỉ nên đồng ý. Sau đó, T đi vào trong phòng ngủ gọi T1 dậy để T1 đi bán dâm cho khách. Thấy vậy, T1 đi ra khu vực bàn uống nước ngồi cùng với T và nhóm của Q. Cùng lúc này S cũng đến nhà nghỉ và đi vào ngồi cùng với mọi người. Trong khi đang ngồi chơi thì V đứng dậy, thấy vậy T nói với S “Đi lên phòng với anh đấy” (Ý của T bảo S đi bán dâm cho V). Hiểu ý của T nên S đi cùng với V lên tầng 2, vào phòng 205 của nhà nghỉ T để thực hiện hành vi mua bán dâm. Khi vào phòng V và S cởi hết quần áo và quan hệ tình dục với nhau.
Sau khi S và V đi lên tầng 2 thì Đỗ Tiến Q bảo với T “Cho em một em”. T hiểu ý của Q là muốn mua dâm nên T nói với T1 “Đi với anh đấy” (Ý của T bảo T1 đi bán dâm cho Quyết). T1 đồng ý và cùng Q đi lên tầng 2, vào phòng 204 của nhà nghỉ để thực hiện hành vi mua bán dâm. Khi vào phòng Q và T1 cởi hết quần áo, lấy bao cao su có sẵn trong phòng và quan hệ tình dục với nhau.
Anh D và anh T ngồi chơi tại phòng ăn tầng 1 nhà nghỉ T, biết nhà nghỉ chỉ có 02 nhân viên đã đi bán dâm cho V và Q nên D không có nhu cầu mua dâm nữa.
Sau khi quan hệ tình dục xong, V cùng S đi xuống tầng 1. Tại đây, V đưa cho T số tiền mua dâm là 250.000 đồng (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng). T nhận số tiền 250.000 đồng từ V rồi cất vào túi quần bên trái đang mặc.
Hồi 15 giờ 00 phút cùng ngày, khi Q và T1 đang thực hiện hành vi mua bán dâm, V và S sau khi mua bán dâm đang thanh toán tiền, thì bị lực lượng Công an huyện Gia Lộc phối hợp với Công an xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Vũ Thị T đang chứa mại dâm tại nhà nghỉ. Vật chứng thu giữ bao gồm: Thu giữ trong túi quần trái của Thiệp số tiền 250.000 đồng (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng). Thu giữ tại phòng 204 của nhà nghỉ 01 ruột bao cao su đã qua sử dụng; 01 vỏ bao cao su đã bị xé rách, nhãn hiệu YES.
Khám xét khẩn cấp nhà nghỉ Trấn Phong, đã thu giữ: Tại phòng 201 thu 02 bao cao su nhãn hiệu YES màu đỏ chưa qua sử dụng tại giá để đồ dưới bàn uống nước; Tại phòng 202 thu 02 bao cao su nhãn hiệu YES màu đỏ, chưa qua sử dụng; Tại phòng 205 thu 01 bao cao su nhãn hiệu YES màu đỏ, chưa qua sử dụng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2019/HSST ngày 09/8/2019, Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc đã căn cứ vào khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 298; điểm a, b,c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án; Xử phạt bị cáo Vũ Thị T 27 tháng tù về tội "Chứa mại dâm", thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 01/4/2019. Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của bị cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23/8/2019, bị cáoVũ Thị T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Ngày 20/8/2019,VKSND huyện Gia Lộc có Quyết định kháng nghị số 02/QĐ-VKS nội dung: Bị cáo thực hiện hành vi chứa mại dâm đối với 4 người (2 đôi nam nữ). Theo Mục 3 Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm ngày 17/3/2003 của UBTVQH đang có hiệu lực pháp luật, quy định: “Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm”, nên hành vi của bị cáo thuộc trường hợp “Chứa mại dâm với 4 người trở lên” theo điểm d khoản 2 Điều 327 BLHS. Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2019/HSST ngày 09/8/2019, Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc đã căn cứ vào hướng dẫn của Công văn 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao, xác định bị cáo phạm tội chứa mại dâm theo khoản 1 Điều 327 BLHS là có sai lầm khi áp dụng quy định của BLHS, xử phạt bị cáo 27 tháng tù là không đúng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Đề nghị cấp phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 355, khoản 2 Điều 357 BLTTHS, điểm d khoản 2 Điều 357 BLHS, tăng hình phạt đối với bị cáo Thiệp.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáoVũ Thị T giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị HĐXX xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo,chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định kháng nghị, sau khi phân tích các tình tiết trong vụ án, xác định cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội chứa mại dâm là đúng. Tuy nhiên, xác định hành vi của bị cáo thuộc trường hợp “Chứa mại dâm với 4 người trở lên” theo điểm d khoản 2 Điều 327 BLHS, nên đề nghị HĐXX căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chấp nhận kháng nghị của VKSND huyện Gia Lộc, sửa án sơ thẩm, căn cứ điểm d khoản 2 Điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; Xử phạt bị cáo T từ 5 năm 3 tháng đến 5 năm 6 tháng tù. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo Vũ Thị T và kháng nghị của VKSND huyện Gia Lộc trong thời hạn luật định nên là kháng cáo, kháng nghị hợp lệ.
[2]. Xét kháng nghị của VKSND huyện Gia Lộc về điều khoản áp dụng và tăng hình phạt đối với bị cáo thấy rằng:
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan cảnh sát điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Vũ Thị T là người trực tiếp quản lý, kinh doanh nhà nghỉ T ở thôn Đ, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương. Thời gian khoảng tháng 3 năm 2019, T đã thống nhất với Trần Thị S và Đoàn Thị T1 là gái bán dâm về việc nhận tiền của khách mua dâm để cho S và T1 bán dâm cho khách tại nhà nghỉ do T quản lý. Khoảng 14 giờ ngày 01/4/2019, T đã thỏa thuận với khách mua dâm là Nguyễn Thế V và Đỗ Tiến Q, sau đó để cho S bán dâm cho V tại phòng số 205 và T1 bán dâm cho Q tại phòng số 204 của nhà nghỉ T. Khi V thực hiện xong hành vi mua dâm với S, đang thanh toán cho T số tiền mua dâm là 250.000 đồng, Q và T1 đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại phòng 204 nhà nghỉ thì bị lực lượng Công an huyện Gia Lộc phối hợp với Công an xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng Bị cáo Vũ Thị T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi dùng nhà nghỉ do mình quản lý chứa mại dâm (người bán dâm) là Trần Thị S và Đinh Thị T1 để cho đối tượng Đỗ Tiến Q và Nguyễn Thế V thực hiện hành vi mua dâm là hành vi trái pháp luật hình sự song vì mục đích vụ lợi nên bị cáo đã cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Chứa mại dâm" quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự.
Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc đề nghị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “chứa mại dâm 04 người trở lên” bao gồm cả người bán dâm và người mua dâm, HĐXX thấy rằng: Theo từ điển tiếng việt thì khái niệm “ mại” là “ bán”, “mãi” là “mua” và “Chứa mại dâm” là “Chứa bán dâm”. Như vậy tình tiết định khung tăng nặng “Chứa mại dâm 04 người trở lên’’ quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự được hiểu là đối với người bán dâm. Do đó, trong cùng khoảng thời gian 14 giờ ngày 01/4/2019 bị cáo Vũ Thị T đã thỏa thuận để cho hai người là Trần Thị S và Đinh Thị T1 bán dâm cho cho hai người mua dâm là Đỗ Tiến Q và Nguyễn Thế V, xác định là 2 người bán dâm, nên Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật phù hợp với hướng dẫn tại Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao. Về mức hình phạt 27 tháng tù đối với bị cáo T là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nên không có căn cứ chấp nhận kháng nghị của VKSND huyện Gia Lộc.
[3]. Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy:
Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ:Thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2009 đã bị Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc xử phạt 12 tháng tù về tội chứa mại dâm, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân vì vụ lợi nên thực hiện hành vi phạm tội. Cấp sơ thẩm đã xử bị cáo 27 tháng tù giam là có căn cứ, đúng pháp luật, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo T xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
[4]. Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Vũ Thị T không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm hình sự theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. [5].Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, HĐXX không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
QUYẾT ĐỊNH
1. Không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Thị T; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 59/2019/HSST, ngày 20/9/2019 của TAND huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
2. Điều luật áp dụng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
3.Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Vũ Thị T 27 (hai mươi bẩy) tháng tù về tội "Chứa mại dâm", thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 01/4/2019.
4. Án phí: Bị cáo Vũ Thị T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 18/10/2019./.
Bản án 129/2019/HSPT ngày 18/10/2019 về tội chứa mại dâm
Số hiệu: | 129/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về