Bản án 128/2021/HS-ST ngày 20/09/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 128/2021/HS-ST NGÀY 20/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 114/2021/TLST- HS ngày 06 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021, đối với bị cáo:

Trần Trung H, sinh năm 1974 tại Hà Nội; tên gọi khác: Không; nơi cư trú: Thôn GK, xã NT, huyện TT, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân N (đã chết) và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1944; vợ: Cấn Minh T, sinh năm 1980; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 28/11/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 07 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; ngày 20/6/2019 Công an thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đ về hành vi “Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/4/2021 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phủ Lý; có mặt.

* Bị hại:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 2000; địa chỉ: Thôn XT, xã TL, huyện VG, tỉnh Hưng Yên; vắng mặt.

2. Anh Trần Đỗ Đ, sinh năm 2002; nơi ĐKNKTT: Xóm TT, xã GT, huyện GT, tỉnh Nam Định; chỗ ở: Tổ 8, phường LHP, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

3. Anh Vũ Việt H, sinh năm 2002; nơi ĐKNKTT: Xã TP, huyện VT, tỉnh Vĩnh Phúc; chỗ ở: Thôn 1, xã PV, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; có đơn xin xử vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Cấn Minh T, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn GK, xã NT, huyện TT, thành phố Hà Nội; có mặt.

2. Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn GK, xã NT, huyện TT, thành phố Hà Nội; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ thứ nhất: Ngày 26/01/2021, Trần Trung H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu vàng biển kiểm soát 29V3-346.38 đi từ nhà đến huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên với mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Khi đến địa phận thôn Yên Lịch, xã Dân Tiến, huyện Khoái Châu, H gặp anh Nguyễn Văn T đang đi bộ một mình trên đường cầm theo chiếc balo nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. H nhờ anh T đi cùng chỉ đường đến Trung tâm thương mại xã Dân Tiến để lấy 15.000.000đ của người quen, hứa sẽ trả công số tiền 100.000đ, anh T đồng ý. Tại đây, H bảo anh T lên khu tầng 2 của Trung tâm thương mại gặp một người phụ nữ để lấy tiền vì H không muốn gặp người này, nhưng yêu cầu anh T để lại chiếc balo đồng thời đưa cho anh T chìa khóa xe mô tô của mình. Khi anh T đi được khoảng 50m thì H lấy chìa khóa phụ mang theo nổ máy điều khiển xe mô tô bỏ đi cầm theo balo của anh T. Đến khu vực đê sông Hồng, H kiểm tra bên trong balo có 01 máy tính laptop nhãn hiệu Dell Inspiron Gaming 5577 i5 7300HQ FHDGTX 1050 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J2pro 32 GB màu đen. H cầm balo đựng tài sản trên về nhà rồi bán cho một người mới quen tên Duy với giá 3.000.000đ.

Vụ thứ hai: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 26/4/2021, Trần Trung H điều khiển xe ô tô Huyndai Verna màu ghi biển kiểm soát 30G-047.57 đi từ nhà xuống thành phố Phủ Lý với mục đích tìm đối tượng là học sinh, sinh viên để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Để thực hiện được mục đích, H đã gọi điện thoại trước cho một người phụ nữ tên Dung và dặn nếu H gọi đến cứ bảo đang cầm tiền và H cho người đến lấy tiền hộ. Sau đó, H đến trường Đại học Công nghiệp Hà Nội cơ sở Hà Nam. Khi đi qua cổng trường khoảng 100m, H phát hiện anh Trần Đỗ Đ đang đi bộ trên vỉa hè, H gọi anh Đ hỏi đường vào thư viện trường và nói với anh Đ: “Cho anh nhờ việc, anh đi làm công trình bớt ra được ít vật tư bán cho một người phụ nữ đang ở trong thư viện được 15.000.000đ mà sếp của anh đang ở trong đấy, gặp sếp không lấy được tiền, em vào gặp chị Dung lấy hộ anh tiền rồi ra anh trả công cho em 500.000đ”. Để tạo niềm tin cho anh Đ, H điện thoại cho người phụ nữ tên Dung mà H đã dặn trước đó rồi đưa cho anh Đ nói chuyện. H bảo anh Đ để lại điện thoại cùng mật khẩu, khi nào anh Đ lấy được tiền mang ra thì H trả lại. Do đã tin tưởng H, anh Đ để 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y19 màu xanh đen, ốp màu đen và mật khẩu máy điện thoại đưa cho H. Sau đó, anh Đ đi vào trong trường thì H điều khiển xe ô tô bỏ đi.

Vụ thứ ba: Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày 26/4/2021, H tiếp tục điều khiển xe ô tô đến khu vực tổ 2, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý phát hiện anh Vũ Việt H đang đi bộ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của anh H. H hỏi anh H đường ra chợ gần cầu Hồng Phú. Sau đó nhờ anh H đi cùng xe để lấy hộ 15.000.000đ từ một người phụ nữ tên Dung có cửa hàng trong chợ và hứa trả tiền công cho anh H. H bảo anh H để lại điện thoại nhưng anh H không đồng ý.

Thấy anh H nghi ngờ, H lấy chìa khóa xe ô tô đưa lại cho anh H để làm tin và anh H đưa cho H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR 64GB, màu trắng, ốp màu đen và đọc cho H mật khẩu điện thoại. Sau khi cầm điện thoại, H tắt định vị điện thoại và chuyển về chế độ máy bay. Anh H xuống xe đi vào trong chợ theo chỉ dẫn của H để tìm người phụ nữ tên Dung và cửa hàng nhưng không tìm được. Khi anh H đã đi khuất, H điều khiển xe bỏ đi. Trên đường đi về nhà H tháo các sim lắp trong hai chiếc điện thoại vừa chiếm đoạt cùng với chiếc sim đã sử dụng để gọi cho người phụ nữ tên Dung rồi bẻ và vứt dọc đường. Về đến nhà, H thoát tài khoản icloud của chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR 64GB màu trắng của anh H.

* Quá trình điều tra thu giữ đồ vật, tài sản gồm:

- 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Verna màu ghi biển kiểm soát 30G-047.57 kèm theo chìa khóa xe; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc; 01 giấy chứng nhận kiểm định đều mang tên Nguyễn Ngọc T;

01 biên bản thu tiền phí sử dụng đường bộ.

- 01 giấy phép lái xe hạng C mang tên Trần Trung H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S10+, màu xanh đen; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Airblade màu vàng biển kiểm soát 29V3-346.38 kèm theo 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Đào Hồng Q.

- 01 điện thoại di động Iphone XR 64GB màu trắng, ốp màu đen; 01 điện thoại Vivo màu xanh đen, ốp màu đen; 01 điện thoại Iphone X64GB, màu bạc, ốp màu hồng; 01 điện thoại Oppo A5s màu đen.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐĐGTS ngày 07/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên kết luận: “01 máy tính laptop nhãn hiệu Dell Inspiron Gaming 5577 i5 7300HQ FHDGTX 1050, đưa vào sử dụng tháng 10/2020, giá trị tài sản tại thời điểm định giá là 12.500.000đ. 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J2pro 32 GB màu đen, đưa vào sử dụng tháng 05/2018, giá trị tài sản tại thời điểm định giá là 500.000đ” Tại bản kết luận định giá tài sản số 31/2021 ngày 04/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận:

“01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y19, màu xanh đen, đã qua sử dụng từ tháng 3/2020, đeo ốp bảo vệ bằng chất liệu tổng hợp màu đen, giá còn 2.300.000đ.

01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR, màu trắng có số IMEI: 357350090134717, đeo ốp bảo vệ bằng chất liệu tổng hợp màu đen, không lắp sim, thẻ nhớ, máy đã qua sử dụng giá còn: 7.000.000đ”.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 46/2021 ngày 15/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade, biển kiểm soát 29V3-346.38, số khung: 630XF2800438, số máy: JF63E1793514, xe đã qua sử dụng giá còn: 26.000.000đ.

Tại bản cáo trạng số 127/CT-VKS-PL ngày 04/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Trần Trung H về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Trần Trung H theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến thay đổi, bổ sung gì. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt Trần Trung H mức án từ 15 đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại Trần Trung H 01 điện thoại di động nhãn hiệu IphoneX, màu bạc, ốp màu hồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A5s màu đen và 01 giấy phép lái xe hạng C mang tên Trần Trung H; tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S10+, màu xanh đen; trả lại chị Cấn Minh Thơ 1/2 giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade màu vàng biển kiểm soát 29V3-346.38 kèm theo 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Đào Hồng Quân; tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade màu vàng biển kiểm soát 29V3-346.38.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cơ bản như bản cáo trạng đã mô tả và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Cấn Minh T có quan điểm: Quá trình điều tra đã tạm giữ một xe máy biển kiểm soát 29V3-346.38 kèm theo 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Đào Hồng Q là tài sản phát sinh trong thời k hôn nhân. Nay chị xin nhận lại toàn bộ chiếc xe làm phương tiện đi lại và chị tự nguyện thanh toán 1/2 giá trị chiếc xe tương đương với 13.000.000đ (phần của bị cáo H) như Hội đồng định giá đã định giá để sung Ngân sách Nhà nước.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Ngọc T có quan điểm: Khi anh cho bị cáo Trần Trung H mượn xe ô tô biển kiểm soát 30G- 047.57 và giấy tờ xe để đi lại, anh không biết bị cáo sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Nay cơ quan Công an đã trả lại anh xe và giấy tờ liên quan đến xe nên anh không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[3] Đánh giá về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Trần Trung H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án về thời gian, địa điểm, diễn biến của vụ án, kết quả định giá tài sản của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ và cơ sở kết luận: Với mục đích chiếm đoạt tài sản để tiêu xài cá nhân, trong các ngày 26/01/2021 và 26/4/2021, Trần Trung H đã 03 lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cụ thể như sau: ngày 26/01/2021, tại thôn Yên Lịch, xã Dân Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Trần Trung H đã có lời nói gian dối, đưa chìa khóa xe mô tô tạo niềm tin đối với anh Nguyễn Văn T để chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J2 pro 32GB màu đen trị giá 500.000đ và 01 máy tính laptop nhãn hiệu Dell Inspiron Gaming 5577 I5 trị giá 12.500.000đ của anh Nguyễn Văn T; ngày 26/4/2021, tại tổ 2, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý và thôn 1, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, H tiếp tục đưa ra thông tin gian dối để tạo niềm tin chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y19 màu xanh đen, ốp màu đen trị giá 2.300.000đ của anh Trần Đỗ Đ và đưa chìa khóa xe ô tô cho anh Vũ Việt H để tạo niềm tin nhằm chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR 64GB màu trắng ốp màu đen trị giá 7.000.000đ của anh Vũ Việt H. Tổng giá trị tài sản mà Trần Trung H chiếm đoạt là 22.300.000đ.

Hành vi của bị cáo Trần Trung H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt 07 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác”, đến nay đã được xóa nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện chính mình, mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với tình tiết phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tác động đến gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho bị hại, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình có xác nhận của chính quyền địa phương, bố đẻ và bố vợ bị cáo đều được tặng thưởng huân huy chương kháng chiến nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

- Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Trung H là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, hành vi phạm tội của bị cáo còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng cho quần chúng nhân dân. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bởi lỗi cố ý.

Cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cần tuyên mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy không cần thiết pH áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y19 màu xanh đen ốp màu đen là tài sản hợp pháp của anh Trần Đỗ Đ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR 64GB màu trắng ốp màu đen là tài sản hợp pháp của anh Vũ Việt H. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại anh Đ và anh H các tài sản trên là phù hợp quy định của pháp luật.

- Đối với 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Verna màu ghi biển kiểm soát 30G- 047.57; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật phương tiện giao thông; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS; 01 biên lai thu tiền phí sử dụng đường bộ; 01 chìa khóa xe ô tô. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Ngọc T. Anh T cho bị cáo mượn xe nhưng không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã trả lại tài sản trên cho anh Nguyễn Ngọc T là phù hợp quy định pháp luật.

- Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Airblade, màu vàng, biển kiểm soát 29V3-346.38 cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Đào Hồng Q là phương tiện bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản được hình thành trong thời k hôn nhân giữa bị cáo với chị Cấn Minh T, nên là tài sản chung của bị cáo với chị Cấn Minh T, chị Cấn Minh T không biết bị cáo sử dụng để làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe, còn lại 1/2 giá trị chiếc xe được trả lại cho chị Cấn Minh T. Tại phiên tòa, chị T tự nguyện nộp 1/2 giá trị chiếc xe tương đương với 13.000.000đ (giá Hội đồng định giá đã định giá) và xin nhận lại toàn bộ xe máy để làm phương tiện đi lại. Xét thấy sự tự nguyện của chị T phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X 64GB màu bạc ốp màu hồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A5S và 01 giấy phép lái xe hạng C là tài sản, giấy tờ hợp pháp của Trần Trung H không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo H.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S10+ màu xanh đen bên trong có lắp hai sim điện thoại là phương tiện Trần Trung H sử dụng để phạm tội nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 03 chiếc sim điện thoại có số thuê bao 0335.772.759; 0396.936.426 và 0822.817.683 được lắp vào hai chiếc điện thoại mà H chiếm đoạt và 01 sim điện thoại H dùng để gọi cho người phụ nữ tên Dung, sau khi thực hiện hành vi phạm tội H đã vứt dọc đường. cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã truy tìm nhưng không phát hiện thu giữ được, nên không xem xét xử lý trong vụ án này.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Chị Cấn Minh T vợ bị cáo H đã bồi thường 12.000.000đ cho anh Nguyễn Văn T, anh T đã nhận đủ số tiền và không có yêu cầu, đề nghị gì khác về dân sự, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đối với hai chiếc điện thoại của anh Trần Đỗ Đ và anh Vũ Việt H bị Trần Trung H chiếm đoạt, anh Đ và anh H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì khác về dân sự. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Các tình tiết khác của vụ án:

Đối với người nam giới tên Duy đã mua lại tài sản mà H chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn T, H khai người này giới thiệu làm cầm đồ ở thôn Mai Sao, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội xác minh nhưng không xác định được. Ngoài lời khai của H không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

Đối với người phụ nữ tên Dung mà H khai đã gọi điện để tạo niềm tin với anh Trần Đỗ Đ, Vũ Việt H. Quá trình điều tra H khai quen biết Dung từ năm 2014 khi đi cùng xe vào miền Nam, sau khi thực hiện hành vi phạm tội H đã xóa số điện thoại, vứt sim đi. Ngoài lời khai của H không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Áp dụng các Điều 106; 136; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Áp dụng Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Trần Trung H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Trung H 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28 tháng 4 năm 2021.

2/ Xử lý vật chứng:

- Trả lại Trần Trung H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A5S màu đen số IMEI1: 868683041771993 không lắp sim điện thoại đựng trong 01 phong bì thư dán kín ký hiệu “ĐTĐKT”; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X 64GB màu bạc đeo ốp bảo vệ màu hồng số IMEI: 356739084154981 không lắp sim điện thoại đựng trong 01 phong bì dán kín ghi ký hiệu “ĐT3ĐKT”; 01 giấy phép lái xe hạng C số 330147008701 mang tên Trần Trung H.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S10+ số IMEI (khe 1): 356262105789872 bên trong lắp 02 sim điện thoại Viettel đựng trong 01 phong bì dán kín ghi ký hiệu “ĐT H”.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade màu vàng biển kiểm soát 29V3-346.38, trả lại chị Cấn Minh T 1/2 giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade màu vàng biển kiểm soát 29V3-346.38 cùng 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy số 018923 mang tên Đào Hồng Q. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Cấn Minh T nộp 1/2 giá trị chiếc xe tương đương với 13.000.000đ sung Ngân sách Nhà nước đồng thời trả lại cho chị Cấn Minh T chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade màu vàng biển kiểm soát 29V3-346.38, số khung 630XF2800438; số máy: JF63E1793514 cùng 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy số 018923 mang tên Đào Hồng Q.

nh trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 10/8/2021 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý.

3/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Trung H phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 128/2021/HS-ST ngày 20/09/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:128/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;