TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TU, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 128/2018/HS-ST NGÀY 17/10/2018 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 17 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân Thị xã TU xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 145/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
Thạch Sà Th, sinh năm 1972 tại: Sóc Trăng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp L V, xã V B, huyện Tr Đ, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Khơme; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thạch M, sinh năm (đã chết) và bà Thạch Thị S, sinh năm: 1953; có vợ Trà Thị U, sinh năm 1973; có 03 người con, người lớn nhất sinh năm 1995, người nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2018 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đỗ Thanh V là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bình Dương; có mặt.
Bị hại: Cháu Trần Thị Phương L, sinh ngày 18/01/2011; hộ khẩu thường trú: Khóm Sở Tại A, xã V Ph, thị xã V Ch, tỉnh Sóc Trăng; chỗ ở hiện nay: Khu phố Kh L, phường Kh B, Thị xã TU, tỉnh Bình Dương; có mặt.
Người giám hộ của bị hại Trần Thị Phương L là:
- Ông Trần Văn V, sinh năm 1984; hộ khẩu thường trú: Khóm Sở Tại A, xã V Ph, thị xã V Ch , tỉnh Sóc Trăng (cha ruột bị hại); có mặt.
- Bà Tăng Thị Pha N, sinh năm 1983; hộ khẩu thường trú: Khóm Sở Tại A, xã V Ph, thị xã V Ch , tỉnh Sóc Trăng; chỗ ở hiện nay: Khu phố Kh L, phường Kh B, Thị xã TU, tỉnh Bình Dương (mẹ ruột bị hại); có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thạch Sà Th, tạm trú tại phòng số 13, nhà trọ Đặng Thị Th thuộc khu phố Kh L, phường Kh B, Thị xã TU, tỉnh Bình Dương có quen biết với cháu Trần Thị Phương L (sinh ngày 18/01/2011) do cháu L ở cùng với gia đình tại phòng số 11, nhà trọ Nguyễn Thị Bích Ch, khu phố Kh L, phường Kh B (gần phòng trọ của Th thuê ở).
Khoảng10 giờ ngày 24/7/2018, Th đang ở trong phòng trọ, lúc này Th sử dụng điện thoại di động để xem phim có nội dung đồ trụy, Th nhìn thấy cháu L đi ngang qua phòng trọ của Th nên nảy sinh ý định sờ vào bộ phận sinh dục của cháu L. Thực hiện ý định, Th đi ra và gọi cháu L quay lại, khi nghe Th gọi thì cháu L quay lại rồi đi vào phòng trọ của Th, sau khi L đi vào phòng thì Th khép hờ cửa phòng (không khóa cửa phòng). Th dùng tay trái ôm ngang hông cháu L và bảo cháu L cho Th sờ bộ phận sinh dục, L không đồng ý và la lên bằng tiếng khơme, Th tiếp tục dùng tay trái kéo váy của cháu L xuống và sờ vào bộ phận sinh dục của cháu L, còn tay phải thì sờ vào dương vật của Th khoảng 2 phút, cháu L bỏ chạy ra bên ngoài đi về phòng trọ nói lại sự việc cho bà Tăng Thị Na L (là bà ngoại cháu L) biết. Sau khi nghe cháu L nói lại, bà Lay đến Công an phường Khánh Bình, Thị xã TU, tỉnh Bình Dương trình báo vụ việc. Công an phường Khánh Bình mời Th đến trụ sở để làm việc, tại đây Th thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Công an phường Khánh Bình tiến hành tạm giữ vật chứng và các tài liệu đồ vật có liên quan gồm: 01 áo thun tay ngắn, màu xanh sọc ngang, loại có cổ áo; 01 quần sọc màu xám; 01 áo thun tay ngắn màu trắng; 01 cái đầm Jean màu xanh nước biển; 01 quần lót đen sọc trắng; 01 chứng minh nhân dân tên Thạch Sà Th; số tiền 2000 đồng. Sau đó, chuyển toàn bộ hồ sơ cùng vật chứng, tài liệu đồ vật liên quan cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thị xã TU thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 275/2018/GĐPY ngày 01/8/2018 của Trung tâm pháp y – Sở Y tế tỉnh Bình Dương kết luận: Bị hại Trần Thị Phương L âm hộ, tầng sinh môn không trầy xước; màng trinh tròn đều, không dấu rách, âm đạo không ra huyết.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trính điều tra, bà Tăng Thị Pha N (là mẹ ruột bị hại Trần Thị Phương L) yêu cầu bị cáo Thạch Sà Th bồi thường với số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).
Cáo trạng số 144/CT-VKS.TU ngày 25/9/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân Thị xã TU, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Thạch Sà Th về tội “Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thị xã TU, tỉnh Bình Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh như cáo trạng và xác định bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc Khơme; tại phiên tòa người giám hộ cho bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và bị cáo chấp nhận việc bồi thường cho bị hại nên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 146; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Thạch Sà Th mức hình phạt từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:
- Tịch thu, tiêu hủy 01 áo thun tay ngắn, màu xanh sọc ngang, loại có cổ áo; 01 quần đùi sọc màu xám; 01 áo thun tay ngắn màu trắng; 01 cái đầm Jean màu xanh biển; 01 quần lót đen sọc trắng.
- Trả lại bị cáo Thạch Sà Th: 01 chứng minh nhân dân tên Thạch Sà Th số 36601369; số tiền 2000 đồng (Hai nghìn đồng) theo ủy chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử ngày 27/9/2018.
Tại phiên tòa bị cáo Thạch Sà Th đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm bào chữa: Thống nhất tội danh, điều luật đã truy tố của Viện kiểm sát; bị cáo thành khẩn khai báo, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, là người dân tộc Khơme; chấp nhận đối với yêu cầu bồi thường của người giám hộ của bị hại, là người dân lao động nghèo, bị cáo hiện bị bệnh tim và có con trai đang bị suy thận, trình độ văn hóa không có. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i, s, b, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự tuyên phạt bị cáo 06 tháng tù.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thị xã TU, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân Thị xã TU, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người giám hộ của bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo Thạch Sà Th tại phiên tòa khai nhận phù hợp với lời khai tại Cơ quan Điều tra, lời khai của bị cáo trước sau thống nhất với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, cũng như tang chứng, vật chứng thu giữ trong vụ án. Do đó, có đủ căn cứ kết luận: Ngày 24/7/2018, tại phòng trọ số 13, nhà trọ Đặng Thị Thơm thuộc khu phố Khánh Lộc, phường Khánh Bình, Thị xã TU, tỉnh Bình Dương bị cáo Thạch Sà Th có hành vi dâm ô đối với cháu Trần Thị Phương L (sinh ngày 18/01/2011). Vào thời điểm xảy ra hành vi phạm tội, bị hại chưa đủ 16 tuổi nên vẫn còn là trẻ em. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” được quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thị xã TU truy tố bị cáo Thạch Sà Th về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo không những trực tiếp xâm hại thân thể, danh dự, nhân phẩm của trẻ em được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường về tâm, sinh lý của bị hại mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Hiện nay, Nhà nước đang tăng cường các biện pháp tuyên truyền và đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của trẻ em. Do đó cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian mới tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội; đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc Khơme; tại phiên tòa bị cáo chấp nhận bồi thường số tiền 70.000.000 đồng cho bị hại và người giám hộ của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
[4] Ý kiến trình bày của người bào chữa cho bị cáo là có căn cứ chấp nhận một phần.
[5] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.
[6] Về xử lý vật chứng:
[6.1] Đối với 01 áo thun tay ngắn, màu xanh sọc ngang, loại có cổ áo; 01 quần sọc màu xám; 01 áo thun tay ngắn màu trắng; 01 cái đầm Jean màu xanh biển; 01 quần lót đen sọc trắng cần tịch thu, tiêu hủy.
[6.2] Đối với 01 chứng minh nhân dân tên Thạch Sà Th và số tiền 2000 đồng là tiền và giấy tờ tùy thân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo thực hiện hành phạm tội nên phải chịu trách nhiệm bồi thường Thệt hại cho bị hại theo quy định tại Điều 584 và 592 Bộ luật Dân sự. Quá trình điều tra, bà Tăng Thị Pha N là mẹ ruột bị hại Trần Thị Phương L yêu cầu bị cáo Thạch Sà Th bồi thường với số tiền 40.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bà N yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền là 70.000.000 đồng.
Bị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền 70.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phạm tội và bị kết án, bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Thạch Sà Th phạm tội “Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
Áp dụng khoản 1 Điều 146; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự,
Xử phạt bị cáo Thạch Sà Th 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/7/2018.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584 và Điều 592 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Thạch Sà Th bồi thường cho bị hại Trần Thị Phương L số tiền 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu Th hành án của người được Th hành án cho đến khi Th hành án xong tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải Th hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải Th hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:
- Tịch thu, tiêu hủy 01 áo thun tay ngắn, màu xanh sọc ngang, loại có cổ áo; 01 quần đùi sọc màu xám; 01 áo thun tay ngắn màu trắng; 01 cái đầm Jean màu xanh biển; 01 quần lót đen sọc trắng.
- Trả lại bị cáo Thạch Sà Th: 01 chứng minh nhân dân tên Thạch Sà Th số 36601369; số tiền 2000 đồng (Hai nghìn đồng) theo ủy chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử ngày 27/9/2018.
(Thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/9/2018 của Chi cục Th hành án dân sự Thị xã TU, tỉnh Bình Dương).
4. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Thạch Sà Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
5. Bị cáo, bị hại, người giám hộ của bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 128/2018/HS-ST ngày 17/10/2018 về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Số hiệu: | 128/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/10/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về