TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 128/2017/HSST NGÀY 22/12/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày22 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 134/2017/HSST ngày 07 tháng 12 năm 2017, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 178/2017/HSST/QĐ ngày 11 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:
Dương Minh P, tên gọi khác: W, sinh năm ngày 13/9/1997 tại Bình Định; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Số nhà 114 đường L, TP. Quy Nhơn, Bình Định; Chỗ ở: Lô 68 đường P, TP. Quy Nhơn, Bình Định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 10/12; con ông Dương Ngọc T sinh năm 1965 và bà Đoàn Thị H sinh năm 1969; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28/6/2017, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Quy Nhơn; có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Anh Đoàn Phi H sinh năm 1993; trú tại: Tổ 46, khu vực 9, phường Đống Đa, TP. Quy Nhơn, Bình Định; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 07 giờ ngày 28/6/2017, tại Bến xe trung tâm Quy Nhơn thuộc phường G, TP. Quy Nhơn, tổ công tác Công an TP. Quy Nhơn phát hiện bắt quả tang Dương Minh P đang cầm giữ 01 hộp giấy cát tông, bên ngoài được dán bằng băng keo, có ghi nội dung “Tèo, 0902.252.991” nên tiến hành kiểm tra thì phát hiện bên trong hộp giấy có 01 gói nhựa được hàn kín, bên trong chứa các hạt tinh thể. P khai nhận các hạt tinh thể chứa trong gói nhựa là ma túy đá.
Ngày 29/6/2017, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định tiến hành giám định và kết luận: Các hạt tinh thể bên trong gói nhựa thu của Dương Minh P (ký hiệu A) gửi giám định có trọng lượng 8,385 gam là Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma tuý nằm trong Danh mục II, STT 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.
Qua điều tra, Dương Minh P khai nhận số ma túy trên là của Dương Minh P cùng với Nguyễn Chí K (Tèo) góp tiền để mua về sử dụng. P góp 2.000.000 đồng, sau đó K nhờ người ở TP. Hồ Chí Minh mua giúp ma tuý gửi về TP. Quy Nhơn. Kt nói cho P biết sáng ngày 28/6/2017 ma tuý sẽ gửi về đến Quy Nhơn nên nói P đến khu vực trả hàng của xe khách “An Phú” trong Bến xe trung tâm Quy Nhơn để nhận ma tuý. Ma túy được cất giấu trong 01 hộp giấy cát tông có ghi tên và số điện thoại của Kiệt. Tối ngày 27/6/2017 P mua 01 gói ma tuý của đối tượng tên “B” (không rõ lai lịch) rồi cùng với Nguyễn Chí K, Trần Minh Q, Đoàn Phi H và Hằng (không rõ lai lịch) đến phòng 203 nhà nghỉ “Hồng Phúc” (gần Bến xe trung tâm Quy Nhơn) sử dụng ma tuý, khi sử dụng hết thì H đi mua thêm 01 gói ma tuý của đối tượng tên “M” (không rõ lai lịch) và gọi Nguyễn Thành T đến cùng sử dụng chung, tất cả ngủ lại tại nhà nghỉ “Hồng Phúc”. Đến khoảng 06 giờ ngày 28/6/2017, P mượn xe môtô BKS 77L1-784.82 của Q và chiếc điện thoại đi động có ghi chữ “X phone” có gắn sim số 0167.646.747 của H đi ra Bến xe trung tâm Quy Nhơn nhận hộp giấy cát tông bên trong có chứa ma tuý do anh Võ Công V chủ xe khách“An Phú” giao thì bị bắt quả tang.
Bản Cáo trạng số 01/QĐ -KSĐT ngày 07 tháng 12 năm 2017 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn truy tố bị cáo Dương Minh P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự (BLHS). Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo thừa nhận đã có hành vi góp tiền mua 8,385gam Methamphetaminne cất giữ để sử dụng nên Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Dương Minh P từ 18 đến 24 tháng tù; Áp dụng Điều 41 BLHS; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) tịch thu, sung công quỹ Nhà nước chiếc điện thoại đang thu giữ; tịch thu, tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Bị cáo Dương Minh P có đầy đủ sức khỏe và trình độ học vấn để nhận thức và điều khiển hành vi của mình, mặt khác, bị cáo là người sử dụng ma túy nên biết rất rõ việc sử dụng ma túy lâu dài sẽ gây nghiện, gây tác hại rất lớn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm, nên việc cất giữ, mua bán, sử dụng các chất ma túy phải theo quy định đặc biệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhưng vì ham chơi, đua đòi nên đã cùng bạn bè mua ma túy về sử dụng. Sau nhiều lần cùng bạn bè mua ma túy với số lượng nhỏ tại TP. Quy Nhơn để sử dụng ngay, bị cáo đã góp tiền gửi vào TP. Hồ Chí Minh mua số lượng lớn hơn về cất giữ để sử dụng dần. Khi bị phát hiện, bị cáo đang cất giữ trong người 8,385 gam là Methamphetamine, là chất ma tuý nằm trong Danh mục II, số thứ tự 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nên cần phải xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa loại tội phạm này.
Tuy nhiên, tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS, xử bị cáo với mức án có lý, có tình để bị cáo an tâm cải tạo, sớm tái hòa nhập với cộng đồng.
Bị cáo khai góp tiền với Nguyễn Chí K (Tèo) để K gửi vào TP. Hồ Chí Minh mua ma túy gửi về, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra xác minh nhưng hiện nay K không có mặt ở địa phương (Tổ 24, KV4, phường L, TP. Quy Nhơn) nên chưa làm rõ hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý của Kt. Hiện Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn đang tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ hành vi của K sẽ xử lý sau.
Ngoài việc gửi tiền vào TP. Hồ Chí Minh mua ma túy về cất giữ để sử dụng, bị cáo còn khai có mua ma túy của đối tượng tên B, Đoàn Phi H khai mua ma túy của đối tượng tên M ở TP. Quy Nhơn để sử dụng chung nhưng không ai biết họ tên, địa chỉ cụ thể của các đối tượng bán ma túy nên chưa thể điều tra, làm rõ để xử lý.
Đối với Võ Công V là người trực tiếp nhận hộp giấy cát tông từ một người (không rõ lai lịch) gửi tại Bến xe miền Đông, TP. Hồ Chí Minh để vận chuyển về TP. Quy Nhơn nhưng không biết bên trong có ma tuý; Trần Minh Q có hành vi cho P mượn xe môtô BKS 77L1-784.82, Đoàn Phi H cho P mượn chiếc điện thoại đi động có gắn sim số 0167.646.747, nhưng Q, H không biết P sử dụng xe, điện thoại để đi và liên lạc lấy ma tuý, do đó Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn không xử lý hình sự là phù hợp.
Về xử lý vật chứng:
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. Quy Nhơn hiện đang thu giữ: 01 bì thư dán kín niêm phong dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định (03 dấu) bên trong bì thư đựng 8,02 gam hạt tinh thể mẫu A có Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 hộp giấy loại giấy bìa cát tông có kích thước khoảng 15 x 10 x 5cm, bên ngoài được dán bằng keo màu vàng có ghi nội dung Tèo “090225991”; 01 điện thoại di động vỏ màu xanh có ghi chữ “X phone” gắn sim điện thoại số 01677646747.
Xét chiếc điện thoại di động là của Đoàn Phi H cho bị cáo mượn, bị cáo sử dụng làm phương tiện liên lạc để nhận ma túy anh H không biết, nhưng anh H không yêu cầu nhận lại nên tịch thu, sung công quỹ Nhà nước.
Số ma túy sau giám định còn lại, hộp cát tông không có giá trị kinh tế nên tịch thu, tiêu hủy.
Về án phí:
Bị cáo bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 99 BLTTHS.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Dương Minh P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự
Xử phạt: Bị cáo Dương Minh P 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28/6/2017.
Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước chiếc điện thoại di động vỏ màu xanh có ghi chữ “X phone” gắn sim điện thoại số 01677646747;
Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì thư dán kín niêm phong dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định (03 dấu) bên trong bì thư đựng 8,02 gam hạt tinh thể mẫu A có Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 hộp giấy loại giấy bìa cát tông có kích thước khoảng 15 x 10 x 5cm, bên ngoài được dán bằng keo màu vàng có ghi nội dung Tèo “090225991” (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/12/2017 của Chi Cục Thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự
Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 128/2017/HSST ngày 22/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 128/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về