Bản án 127/2019/HNGĐ-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 127/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 22 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 681/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 150/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 116/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Thúy D (tên gọi khác: Bé Nị), sinh năm 1988; địa chỉ thường trú: Ấp T, xã T, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang; tạm trú: Số A khu phố T, phường Đ, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Hoàng N, sinh năm 1986; địa chỉ: Số B khu phố T, phường Đ, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Võ Thị Hồng V, sinh năm 1964; địa chỉ: Ấp T, xã A, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1976; địa chỉ: Số B khu phố T, phường Đ, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 7 năm 2019 và quá trình tố tụng nguyên đơn chị Ngô Thị Thúy D trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Phạm Hoàng N có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 04 tháng thì tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 75/2011, quyển số 01/2011 vào ngày 27/6/2011. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh, đến giữa năm 2010 vợ chồng chuyển đến thuê trọ, sinh sống và làm việc tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Anh N làm thợ hồ thu nhập một tháng khoảng 8.000.000 đến 9.000.000 đồng, chị làm công nhân may thu nhập tháng khoảng 7.000.000 đến 8.000.000 đồng.

Vợ chồng anh chị chung sống không hạnh phúc ngay từ khi mới cưới nhưng cũng là những mâu thuẫn nhỏ nên chị chịu đựng để gia đình yên ấm. Khoảng 01 năm trở lại đây thì mâu thuẫn xảy ra trầm trọng, nguyên nhân là do vợ chồng thường xuyên cãi nhau về vấn đề kinh tế trong gia đình do hàng tháng thu nhập của anh N được bao nhiêu anh tự quản lý, thỉnh thoảng mới đưa cho chị vài trăm để chi tiêu. Khi chị đã chi tiêu hết khoản lương của mình, chị nhắc anh N phụ chị tiền thì anh N chửi chị, vợ chồng lời qua tiếng lại thì anh N đập phá đồ đạc hoặc đánh đập chị. Năm 2018, chị nộp đơn ly hôn tại nơi thường trú (Tòa án nhân dân huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang) nhưng gia đình 2 bên khuyên nhủ và anh N xin lỗi, hứa sẽ sửa chữa nên chị rút đơn cho anh N cơ hội về đoàn tụ gia đình. Từ đó mỗi tuần anh N phụ chị 500.000 đồng chi phí sinh hoạt gia đình còn lại do chị tự lo liệu, tiền anh N phụ chị thì ít nhưng tiền anh N lấy lại để về quê thăm con thì nhiều nên vợ chồng cãi nhau anh N lại tiếp tục đánh đập chị. Không chịu được cuộc sống như vậy nên tháng 5 năm 2019 chị dọn ra ngoài ở riêng, thời gian chị ở riêng anh N cũng đến kiếm chuyện đánh đập chị 2 lần nên chị làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh N.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Phạm Thị Như Q, sinh ngày 05/7/2009, Phạm Hoàng Q, sinh ngày 01/01/2016. Sau khi ly hôn chị D yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung tên Phạm Hoàng Q, sinh ngày 01/01/2016 và đồng ý giao con chung tên Phạm Thị Như Q, sinh ngày 05/7/2009 cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng và hai bên không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai ngày 06 tháng 8 năm 2019 bị đơn anh Phạm Hoàng N trình bày: Anh, chị có thời gian tìm hiểu nhau 2 năm, có tổ chức đám cưới năm 2008 nhưng đến năm 2011 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 75/2011, quyển số 01/2011 vào ngày 27/6/2011. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng đến thuê trọ, chung sống tại thị xã Dĩ An. Vợ chồng vẫn chung sống hạnh phúc, thỉnh thoảng có xảy ra mâu thuẫn nhưng chỉ là những chuyện nhỏ nhặt trong sinh hoạt hàng ngày, mâu thuẫn không trầm trọng. Cách đây khoảng 04 tháng vợ chồng anh có xảy ra cãi vã về vấn đề tiền bạc như mọi khi nhưng chị D lại dọn ra ngoài ở riêng, anh đã nhiều lần liên hệ kêu chị D về chung sống với anh và con nhưng chị D không về. Anh xác định vẫn còn tình cảm với chị D và thương các con nên không đồng ý với yêu cầu của chị D.

Do không đồng ý ly hôn nên anh không yêu cầu giải quyết về con chung tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản. Trường hợp Tòa án giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D thì anh yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con và không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

Tại phiên tòa, anh N trình bày, nếu Tòa án giao con chung tên Phạm Hoàng Q cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng anh sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cháu Q mỗi tháng 1.000.000 đồng, anh đồng ý nuôi cháu Phạm Thị Như Q mà không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

- Tại biên bản lấy lời khai người làm chứng ngày 06 tháng 8 năm 2019 bà Võ Thị Hồng V khai:

Bà là mẹ ruột của chị D, mẹ vợ của anh N. Chị D và anh N có thời gian tìm hiểu hơn một năm thì tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại tỉnh Tiền Giang. Sau khi kết hôn thì vợ chồng anh N, chị D thuê trọ, sinh sống tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Anh N làm thợ hồ, chị D làm công nhân giày da, hai vợ chồng có cuộc sống bình thường, thu nhập ổn định. Từ sau khi chị D sinh con đầu lòng thì vợ chồng thường xuyên cãi nhau, thỉnh thoảng có đánh nhau. Gia đình hai bên biết chuyện hòa giải nhiều lần, chị D đã nộp đơn ly hôn ở quê 3 lần nhưng do gia đình khuyên can nên đều rút đơn nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn không cải thiện. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh N không chu cấp cho chị D về kinh tế để chị D chăm lo cho gia đình. Hai vợ chồng đã ly thân nhưng thời gian ly thân bao lâu thì bà không biết.

- Tại biên bản lấy lời khai người làm chứng ngày 27 tháng 9 năm 2019 bà Nguyễn Thị L khai:

Bà là hàng xóm, cùng khu trọ với vợ chồng anh N, chị D. Bà đã ở trọ tại đây từ năm 2008 cho đến nay, bà biết anh N làm thợ hồ, chị D làm công nhân. Thời gian đầu chị thấy hai vợ chồng anh N sống cũng hạnh phúc nhưng khoảng 2 đến 3 năm trở lại đây thì vợ chồng thường xuyên cãi nhau, thỉnh thoảng còn đánh nhau, đập phá đồ đạc, nguyên nhân tại sao cãi và đánh nhau bà thì không biết. Nay chị D đã chuyển ra ngoài ở, vợ chồng anh N, chị D không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau nữa.

- Tại biên bản xác minh nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh N và chị D do Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiến hành ngày 05/8/2019, Hội Liên hiệp phụ nữ phường cung cấp thông tin như sau: Hội liên hiệp phụ nữ phường không nhận được đơn đề nghị hòa giải hôn nhân giữa chị Ngô Thị Thúy D và anh Phạm Hoàng N, đồng thời Hội cũng không tiếp nhận phản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh chị, do đó không biết rõ mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An tham gia phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã được thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng Dân sự, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Sự chấp hành pháp luật của đương sự: Các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các quy định pháp luật liên quan.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án nhận thấy yêu cầu ly hôn và nuôi con của nguyên đơn là có cơ sở theo quy định pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: người làm chứng Võ Thị Hồng V và Nguyễn Thị L có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ Điều 229 Bộ luật Tố tụng Dân sự Tòa án xét xử vắng mặt bà V, bà L.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị Thúy D và anh Phạm Hoàng N là vợ chồng có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 75/2011, quyển số 01/2011 ngày 27/6/2011 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[3] Quá trình tố tụng anh N khai trong cuộc sống chung vợ chồng anh có những lúc xảy ra mâu thuẫn nhưng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt hàng ngày không đến mức trầm trọng phải ly hôn. Chị D trình bày, từ khi cưới đến khoảng hơn một năm nay anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng khó khăn về tài chính, anh N không phụ chị tiền bạc để chi tiêu trong gia đình. Năm 2018, chị D nộp đơn ly hôn tại nơi đăng ký thường trú, anh N xin lỗi, yêu cầu chị D cho cơ hội để sửa chữa, nhưng khi về đoàn tụ anh N vẫn không thay đổi, khi vợ chồng nói chuyện về tài chính anh N còn đánh đập chị D. Lời trình bày này của chị D cũng phù hợp với lời trình bày của người làm chứng bà Võ Thị Hồng V và cũng phù hợp với lời khai của anh N tại phiên tòa là khi vợ chồng anh chị cãi nhau thỉnh thoảng có xô đẩy nhau, tại biên bản lấy lời khai ngày 27/92019, bà L là hàng xóm với vợ chồng anh N, chị D cũng thừa nhận việc cãi nhau, đánh nhau giữa anh N, chị D.

[4] Xét thấy, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc; để đạt được mục đích đó vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Quá trình chung sống giữa anh N, chị D phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh N không phụ giúp chị D trong vấn đề tài chính, khi vợ chồng nói chuyện cũng không đưa ra được phương án, cách thức giải quyết để hàn gắn tình cảm gia đình, hòa giải những mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng mà mâu thuẫn lại trầm trọng hơn khi mà anh N không kìm chế được tình cảm đã đánh đập chị D khiến chị D không chịu đựng được phải chuyển ra ngoài ở từ tháng 5 năm 2019 đến nay. Khi chị D ra ngoài ở anh N đến nói chị D về nhưng thái độ lại không thiện chí mà còn tiếp tục chửi và đánh chị, điều này cho thấy tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của chị D là có căn cứ theo quy đinh tai khoản 1 Điêu 56 Luật Hôn nhân va gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Vợ chồng chị D, anh N có 02 con chung tên Phạm Thị Như Q, sinh ngày 05/7/2009, Phạm Hoàng Q, sinh ngày 01/01/2016. Anh N, chị D đều có yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, cháu Q có nguyện vọng được ở cùng với cả cha và mẹ, không đồng ý cho cha, mẹ ly hôn. Xét, việc giao con cho ai chăm sóc cũng đều phải đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho các cháu. Cháu Phạm Hoàng Q còn nhỏ cần được sự chăm sóc của mẹ và từ khi chị D với anh N sống ly thân thì cháu Q sinh sống cùng mẹ. Cháu Phạm Thị Như Q từ trước đến nay sinh sống cùng anh N và bà nội, chị D cũng đồng ý giao cháu Phạm Thị Như Q cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng vì nếu chị hoặc anh N nuôi cả 2 cháu thì sẽ không đủ kinh tế, điều kiện để chăm sóc tốt cho hai cháu. Nếu giao cháu Q cho chị D nuôi dưỡng thì phải thay đổi môi trường sống và học tập, điều này không tốt cho việc học hành của cháu. Vì vậy, giao con chung tên Phạm Hoàng Q, sinh ngày 01/01/2016 cho chị D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giao con chung tên Phạm Thị Như Q, sinh ngày 05/7/2009 cho anh Phạm Hoàng N trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn là có căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Ngô Thị Thúy D và anh Phạm Hoàng N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con cho nhau, tuy nhiên tại phiên tòa anh N tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung Phạm Hoàng Q với mức cấp dưỡng mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi. Xét, đây là sự tự nguyện của anh N nên tòa án ghi nhận.

[6] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sư không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Từ những phân tích trên, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An là có cơ sở chấp nhận.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Ngô Thị Thúy D phải chịu án phí ly hôn, anh Phạm Hoàng N phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy đinh cua phap luât.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, các Điều 229, 235, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị Thúy D được ly hôn với anh Phạm Hoàng N (giấy chứng nhận kết hôn số 75/2011, quyển số 01/2011 do UBND xã T, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang cấp ngày 27/6/2011).

2. Về con chung:

2.1. Chị Ngô Thị Thúy D giao con Phạm Thị Như Q, sinh ngày 05/7/2009 cho anh Phạm Hoàng N trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Phạm Hoàng N giao con chung tên Phạm Hoàng Q, sinh ngày 01/01/2016 cho chị Ngô Thị Thúy D trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Ngô Thị Thúy D không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh N. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Phạm Hoàng N về việc cấp dưỡng nuôi cháu Phạm Hoàng Q mỗi tháng 1.000.000 (một triệu) đồng cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày chị Ngô Thị Thúy D có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Phạm Hoàng N chậm thi hành số tiền trên thì hàng tháng anh N còn phải trả cho chị D số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Sau khi ly hôn anh N, chị D phải tạo điều kiện cho nhau trong việc thăm nom, chăm sóc con, không ai có quyền ngăn cản anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu, Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Ngô Thị Thúy D phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đông an phi ly hôn đươc khấu trư vao tiên tam ứng án phí đã nộp theo biên lai sô 0028910 ngày 16 tháng 7 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An , tỉnh Bình Dương.

Anh Phạm Hoàng N phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 127/2019/HNGĐ-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:127/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;