Bản án 127/2018/HS-ST ngày 22/08/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 127/2018/HS-ST NGÀY 22/08/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 140/2018/TLST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Lương B, sinh ngày 06 tháng 4 năm 1986 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường Q, phường K, thành phố S, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương S và bà Mã V; có vợ là Nông T và 01 con sinh năm 2012; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 31/7/2005, bị Công an thành phố Lạng Sơn xử phạt vi phạm hành chính 400.000 đồng về hành vi hủy hoại tài sản và ngày 25/02/2008, bị Công an thành phốLạng Sơn xử phạt vi phạm hành chính 500.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng, các lần xử phạt hành chính trên đã được xóa; bị bắt tạm giữ ngày 02/5/2018, tạm giam ngày 05/5/2018 cho đến nay. Có mặt.

2. Đỗ Q (Quang), sinh ngày 17 tháng 9 năm 1980 tại tỉnh Hòa Bình. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã S, huyện S, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đ và bà Hà T; có vợ là Hoàng T và 03 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 02/5/2018, tạm giam ngày 05/5/2018 đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Hà A, sinh năm 1974. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 182, phố Bờ Sông, thị trấn Lộc Bình, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Ngõ 9, đường Ngô Quyền, Khối 8, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

2. Chị Lương N, sinh năm 1988. Nơi cư trú: Số 8, Ngõ 5, đường Phai Vệ, Khối 5, phường Đông Kinh, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 01/5/2018, tại khu vực dãy nhà trọ khu Đồi Chè, xã Hoàng Đồng, thành phố Lạng Sơn, Đỗ Q mua 2.000.000 đồng ma túy với một người phụ nữ không rõ lai lịch, số ma túy mua được gồm có 11 viên ma túy ngựa và 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Khoảng 10 giờ sáng ngày 02/5/2018, Đỗ Q mang số ma túy trên đến nhà Lương B và cùng nhau sử dụng. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Hà A dùng số thuê bao 0942175996 gọi đến số điện thoại 0911139868 của Đỗ Q hỏi “có đồ không, nếu có để cho chị ba ngựa hai nước”, Đỗ Q hiểu Hà A hỏi mua ma túy. Đỗ Q đồng ý và Hà A hẹn mang ma túy ra khu vực Cầu chui trên đường Ngô Quyền, phường Vĩnh Trại để giao dịch mua bán. Đỗ Q sẻ 03 viên ma túy ngựa và một ít ma túy đá vào 01 túi nilon nhỏ rồi bảo Lương B cầm ra khu vực Cầu chui giao cho Hà A lấy 500.000 đồng, Đỗ Q đọc số điện thoại của Hà A cho Lương B để liên lạc. B đồng ý và mang ma túy đi, đến Cầu chui B lấy điện thoại gọi cho A, A bảo chờ một lúc. Khi B đang đứng chờ A đến lấy ma túy thì lực lượng Công an đến kiểm tra, B giấu túi nilon ma túy vào gốc cây hoa sát chân tà luy đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn nhưng vẫn bị phát hiện bắt quả tang và lập biên bản thu giữ gói ma túy và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen. Ngay sau đó Cơ quan điều tra tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Đỗ Q và thu giữ của Đỗ Q, 08 viên nén màu hồng và 01 (một) túi nilon bên trong đựng chất tinh thể màu trắng.

Ngoài ra, trong quá trình điều tra Đỗ Q còn khai trước đó khoảng gần tết Nguyên đán 2018, Đỗ Q có được bán cho Hà A 01 viên ma túy ngựa và một ít ma túy đá với giá 150.000 đồng.

Tại bản Kết luận giám định số 162/KL-PC54 ngày 04/5/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

a) 03 (ba) viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng thu giữ của Lương B gửi giám định đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,419 gam (đã trừ bì).

b) 08 (tám) viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng thu giữ của ĐỗQ gửi giám định đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 3,641 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 140/CT-VKSTP-MT ngày 01 tháng 8 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đỗ Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Lương B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Q và Lương B thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.

Chị Lương N khai: Chị Lương N là em gái của bị cáo Lương B, chị Lương N có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, do không sử dụng đến chị Lương N có cho bị cáo Lương B mượn để làm phương tiện liên lạc. Ngày 02/5/2018, bị cáo Lương B bị bắt về hành vi mua bán trái phép chất ma túy và cơ quan điều tra có thu giữ chiếc điện thoại Iphone màu đen trên. Tại phiên tòa chị Lương N yêu cầu được trả lại điện thoại Iphone bị Công an thu giữ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Đỗ Q và Lương B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s, r khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Q từ 07 đến 08 năm tù; xử phạt bị cáo Lương B từ 02 đến 2,5 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì qua xác minh các bị cáo không có tài sản để đảm bảo thi hành án. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X2 màu đen cũ đã qua sử dụng; trả lại cho chị Lương N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ 55 phút ngày 02/5/2018, tại khu vực trước cổng khách sạn Diamond, đường Ngô Quyền, phường Đông Kinh, thành phố Lạng Sơn, bị cáo Lương B mang 01 gói ma túy Methamphetamine có khối lượng0,419 gam của bị cáo Đỗ Q để bán cho Hà A. Khi bắt người trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra thu giữ thêm 3,641 gam ma túy Methamphetamine của bị cáo Đỗ Q cất giữ để sử dụng và bán cho những người có nhu cầu. Ngoài lần bán ma túy trên, trước đó vào gần tết Nguyên đán 2018, bị cáo Đỗ Q còn bán cho Hà A 01 viên ma túy tổng hợp kèm theo một ít ma túy đá với giá 150.000 đồng. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo Đỗ Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Lương B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quyđịnh tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

 [3] Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong xã hội. Các bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, nhưng vì hám lợi, lười lao động, muốn có tiền một cách dễ dàng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện, do đó hành vi của các bị cáo phải được xử lý nghiêm trước pháp luật.

 [4] Đây là vụ án có đồng phạm, nhưng được tổ chức dưới hình thức đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, trong đó bị cáo Đỗ Q có vai trò chính, bị cáo Lương B có vai trò thấp hơn. Tổng khối lượng ma túy bị thu giữ 4,06 gam là của bị cáo Đỗ Q và bị cáo Đỗ Q là người trực tiếp liên hệ thống nhất giá cả, số lượng, địa điểm mua bán ma túy, vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng khối lượng 4,06 gam ma túy. Bị cáo Lương B là người tiếp nhận ý chí từ bị cáo Đỗ Q và là người trực tiếp mang 01 gói ma túy có khối lượng 0,419 gam đi giao bán cho người mua ma túy, vì vậy bị cáo chỉ phải chịu trách nhiệm với khối lượng ma túy này.

 [5] Về nhân thân: Các bị cáo đều là người sử dụng chất ma túy, lần phạm tội này là lần đầu. Bị cáo Lương B từng có 02 tiền sự, lần 1 ngày 31/7/2005, bị Công an thành phố Lạng Sơn xử phạt 400.000 đồng về hành vi hủy hoại tài sản; lần 2 ngày 25/02/2008, bị Công an thành phố Lạng Sơn xử phạt 500.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng, các lần xử phạt hành chính trên đã được xóa nhưng điều đó thể hiện bị cáo là người khó giáo dục, cải tạo.

 [6] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

 [7] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, vì vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra bị cáo Đỗ Q đã khai thêm trước đó gần tết Nguyên Đán 2018, bị cáo có 01 lần bán ma túy cho Hà A, nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lương B có bố là ông Lương S được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [8] Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, tính chất, mứcđộ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và về mức hình phạt áp dụng đối với từng bị cáo là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [9] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh thể hiện các bị cáo không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

 [10] Về xử lý vật chứng căn cứ điểm a, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 02 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, màn hình có nhiều vết xước, không có mặt lưng, số Imei 012543006973916 trả lại cho chủ sở hữu chị Lương N; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X2 màu đen có số Imei 353780/OD/537947/1 cũ đã qua sử dụng là công cụ phương tiện phạm tội, cần tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước.

 [11] Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

 [12] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho bị cáo Đỗ Q, do không xác minh được lai lịch, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý trong vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b Khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đỗ Q

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 251; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lương B.

Căn cứ Điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đỗ Q và Lương B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Đỗ Q 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tùtính từ ngày bắt tạm giữ 02/5/2018.

- Xử phạt bị cáo Lương B 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạttù tính từ ngày bắt tạm giữ 02/5/2018.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong đựng mẫu vật (chất ma túyMethamphetamine) sau giám định; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long.

- Tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại Nokia X2 màu đen có số Imei 353780/00/537947/1.

- Trả lại cho chị Lương N: 01 điện thoại Iphone màu đen, màn hình có nhiều vết nứt, không có mặt lưng có số Imei 012543006973916. (Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30 tháng 7 năm 2018)

4. Về án phí: Bị cáo Đỗ Q và Lương B mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 127/2018/HS-ST ngày 22/08/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:127/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;