Bản án 126/2023/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 126/2023/HS-ST NGÀY 07/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 62/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 163/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2023;

- Các bị cáo:

1. Nguyễn Hoàng N, sinh năm 1993 tại Đ; Giấy chứng minh nhân dân số: 27236xxxx, do Công an tỉnh Đ cấp ngày 09-11-2017; nơi đăng ký thường trú: Số I, Tổ C, ấp S, xã X, huyện C, tỉnh Đ; nơi cư trú: Khu C, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trung N1 (đã chết) và bà Phạm Thị T; tiền sự: Không;

Tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 218/2018/HSST ngày 10/7/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đ xử phạt 03 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm”; chấp hành xong án phí ngày 29/7/2019; chấp hành xong án phạt tù ngày 29/8/2020; đã chấp hành xong bản án.

Nhân thân:

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2013/HSST ngày 08/11/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); chấp hành xong án phạt tù ngày 03/4/2014; chấp hành xong án phí ngày 28/4/2014; đã chấp hành xong bản án.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2016/HSST ngày 21/6/2016, bị Tòa án nhân dân huyện cẩm Mỹ, tỉnh Đ xử phạt 02 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), xác định bị cáo có 01 tiền án năm 2013; chấp hành xong án phí ngày 26/8/2016; chấp hành xong án phạt tù ngày 04/10/2017; đã chấp hành xong bản án.

- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 3248/QĐ-CSMT(Đ3) ngày 06/12/2021, bị Công an tỉnh Đ xử phạt vi phạm hành chính 15.000.000 đồng về hành vi “Tàng trữ công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép (02 khẩu súng và 09 viên đạn)”; nộp phạt ngày 04/3/2022.

- Tại Quyết định số: 1002/QĐ-UB ngày 19/10/2007, bị Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trường G về hành vi “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong và ra trường ngày 19/7/2009.

Bị cáo bị bắt quả tang, chuyển tạm giam từ ngày 08-7-2021 đến nay tại Trại Tạm giam - Công an tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

2. Lê Xuân M, sinh năm 1989 tại Đ; Giấy chứng minh nhân dân số: 271811416, do Công an tỉnh Đ cấp ngày 07/7/2018; nơi đăng ký thường trú: Tổ C, ấp S, xã X, huyện C, tỉnh Đ; nơi cư trú: số C, Khu phố D, phường T, thành phố B, tỉnh Đ; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Xuân T1 và bà Phạm Thị T2; tiền án: Không; tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Tại Quyết định số: 59/QĐ-UB ngày 24/10/2006, bị Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trường G về hành vi “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong và ra trường ngày 28/6/2xxx.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2013/HSST ngày 22/3/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm tù giam về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); chấp hành xong án phí vào tháng 7/2013; chấp hành xong án phạt tù ngày 27/4/2015; đã chấp hành xong bản án.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp, chuyển tạm giam từ ngày 09-7-2021 đến nay tại Trại Tạm giam - Công an tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

3. Lê Phúc N2, sinh năm 1995 tại B; Giấy chứng minh nhân dân số: 26132xxxx, do Công an tỉnh B cấp ngày 13-11-2019; nơi đăng ký thường trú: số A, Đường số B, Tổ G, Thôn A, xã T, huyện Đ, tỉnh B; nơi cư trú: Căn hộ số I, Tầng A, Chung cư P, phường Q, thành phố B, tỉnh Đ; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê C và bà Lê Thị T3; tiền sự: Không;

Tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 106/2017/HS-ST ngày 04-8- 2017, bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), bản án này bị kháng nghị tăng hình phạt; tại Bản án hình sự phúc thẩm số: 548/2017/HS-PT ngày 27/9/2017, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm, xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội danh và điều luật nêu trên; chấp hành xong án phạt tù ngày 28/8/2019.

Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 72/2022/HS-ST ngày 31-5- 2022, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đ xử phạt 17 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (hành vi phạm tội thực hiện ngày 05/9/2021), theo điểm h khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Bị cáo bị bắt, chuyển tạm giam từ ngày 05-9-2021 đến nay tại Trại Tạm giam - Công an tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

4. Trần Thị K, sinh năm 1975 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Căn cước công dân số: 07917501xxxx; nơi đăng ký thường trú: Số C, đường H, Tổ A, Khu phố C, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Căn hộ số F, Chung cư F, số D, đường N, Phường F, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 00/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn N3 (đã chết) và bà Nguyễn Thị T4; có chồng tên Nguyễn Văn Q và có 05 con;

Tiền sự: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 002036/QĐ-XPHC ngày 16/6/2020, bị Công an quận G, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 200.000 đồng về hành vi “Gây mất trật tự nơi công cộng”.

Tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 179/2015/HSST ngày 15/9/2015, bị Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); chấp hành xong tiền phạt và án phí ngày 31/3/2016; chấp hành xong án phạt tù ngày 01/7/2019; đã chấp hành xong bản án.

Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 610/2022/HS-ST ngày 27- 12-2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã xử phạt tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Bị cáo Trần Thị K bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Thành phố H bắt quả tang, chuyển tạm giam từ ngày 12-6-2021 (trong vụ án đã xét xử tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 610/2022/HS-ST ngày 27-12-2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nêu trên); hiện nay, bị cáo đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam L4 - Bộ C1; có mặt tại phiên tòa.

5. Nguyễn Toại N4, sinh năm 1986 tại Đ; Giấy chứng minh nhân dân số: 271633602, do Công an tỉnh Đ cấp ngày 09-10-2020; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Tổ G, Ấp A, xã S, huyện C, tỉnh Đ; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (chết) và bà Phạm Thị Thanh T5; có vợ tên Dương Thị T6 và có 03 con; tiền sự: Không; tiền án: Không;

Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 681/HSST ngày 13/12/2004, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đ xử phạt 06 năm tù về tội “Cướp tài sản”, theo điểm d khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/6/2009.

Bị cáo bị bắt quả tang, chuyển tạm giam từ ngày 09-7-2021 đến nay tại Trại Tạm giam - Công an tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa:

1. Người bào chữa cho bị cáo Nguyn Hoàng N: Ông Bùi Quang V, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ; nơi làm việc: Văn phòng Luật sư Bùi Quang V; địa chỉ: Khu phố C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

2. Người bào chữa cho các bị cáo Lê Xuân M và Nguyn Toại N4: Ông Lâm Thanh T7, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ; nơi làm việc: Văn phòng L5; địa chỉ: số D, đường N, Khu phố D, phường Q, thành phố B, tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

3. Người bào chữa cho các bị cáo Lê Phúc N2 và Trần Thị K: Ông Nguyễn Văn M1, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ; nơi làm việc: Công ty L6; địa chỉ: Đường V, phường T, thành phố B, tỉnh Đ; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính:

1.1. Hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” của Nguyễn Hoàng N:

Trong thời gian từ tháng 02/2021 đến ngày 08/7/2021, Nguyễn Hoàng N mua nhiều loại ma túy khác nhau: Ma túy loại Heroin, ma túy tổng hợp loại ma túy đá, ma túy tổng hợp loại ma túy khay, ma túy tổng hợp loại thuốc lắc của các đối tượng khác nhau, để sử dụng và bán lại.

Khoảng tháng 3/2021, Nguyễn Hoàng N mua của người tên L (không rõ lai lịch) 450 gam ma túy đá, với giá 112.000.000 đồng. Đến ngày 12/6/2021, N mua của Trần Thị K (là bị cáo trong vụ án) 02 bánh ma túy khối lượng 700 gam loại Heroin. Sau đó, đầu tháng 6/2021, N mua của người tên T4 (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy đá giá 5.000.000 đồng. Đến ngày 08/7/2021, Nam mua của Châu Thái H1, sinh năm 1995 (nơi cư trú: số A, Đường C T, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh) 825 viên và 05 nửa viên ma túy thuốc lắc loại MDMA, khối lượng 386,7255 gam; 02 viên ma túy thuốc lắc loại Ketamine, khối lượng 0,8724 gam; 02 bánh ma túy loại Heroin, khối lượng 703 gam; 04 gói ma túy, khối lượng 214 gam loại Methamphetamine; 01 gói ma túy khối lượng 4,7441 gam, loại Ketamine.

Sau khi mua được ma túy trong khoảng thời gian từ tháng 4/2021 đến tháng 7/2021, N đã nhiều lần bán cho nhiều đối tượng khác nhau, cụ thể như sau:

- Tháng 6/2021 đến tháng 08/7/2021, Nguyễn Hoàng N bán cho Lê Xuân M (là bị cáo trong vụ án) 120 gam ma túy đá với giá 35.000.000 đồng và 03 gói ma tuý đá (không rõ khối lượng). Ngoài ra, do M giúp N trong việc mua bán ma túy và một số việc riêng của N, nên N cho M 01 gói ma túy có khối lượng 1,4011gam, loại Methamphetamine.

- Từ tháng 3/2021 đến ngày 08/7/2021, N nhiều lần bán ma túy cho Nguyễn Toại N4 (là bị cáo trong vụ án); trong đó, ngày 05/7/2021, Nguyễn Hoàng N bán cho N4 10 gói ma túy, khối lượng 95,2523 gam loại Methamphetamine, 01 gói ma túy khối lượng 0,4346 gam, loại Ketamine.

- Từ tháng 5/2021 đến ngày 03/7/2021, Nguyễn Hoàng N bán cho Lê Phúc N2 (là bị cáo trong vụ án) 06 lần, cụ thể: Khoảng đầu tháng 5/2021 bán 01 gói ma túy đá (không rõ khối lượng) giá 44.000.000 đồng; ngày 15/5/2021, bán 01 gói ma túy khay (không rõ khối lượng) giá 13.000.000 đồng; đầu tháng 6/2021, bán 01 gói ma túy đá (không rõ khối lượng) giá 32.000.000 đồng; giữa tháng 6/2021 bán 01 gói ma túy khay (không rõ khối lượng) giá 50.000.000 đồng; ngày 02/7/2021, bán 650 gam ma túy khay; 03/7/2021, bán 600 gam ma túy đá và 17,5 gam ma túy khay.

- Từ tháng 02/2021 đến 30/6/2021, Nguyễn Hoàng N bán ma túy cho Trần H2, sinh năm 1993 (nơi cư trú: Tổ D, Áp H, xã X, huyện C, tỉnh Đ) 06 lần; 05 lần đầu mỗi lần một gói ma túy đá (không rõ khối lượng) với giá 5.000.000 đồng; lần cuối cùng ngày 30/6/2021, N bán cho H2 một gói ma túy đá giá 4.500.0000 đồng.

- Từ tháng 4/2021 đến ngày 11/6/2021, Nguyễn Hoàng N bán ma túy cho Đoàn Thị Thanh V1, sinh năm 1998 (nơi cư trú: Ấp S, xã X, huyện C, tỉnh Đ) 06 lần; trong đó, 03 lần đầu mỗi lần bán cho V1 một gói ma túy (không rõ khối lượng) giá 2.000.000 đồng, 03 lần sau mỗi lần bán cho V1 một gói ma túy (không rõ khối lượng) giá 21.000.000 đồng.

- Từ tháng 4/2021 đến tháng 08/7/2021, Nguyễn Hoàng N bán cho Lê Minh T8, sinh năm 1988 (nơi cư trú: Khu P, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ) khoảng 25 lần, mỗi lần một gói ma tuý đá (không rõ khối lượng) với tổng số tiền 126.200.000 đồng. Lần cuối cùng là ngày 08/7/2021, N bán cho T8 một gói ma túy đá (không rõ khối lượng) giá 7.000.000 đồng.

- Nguyễn Hoàng N bán cho Phạm Chí T9, sinh năm 1983 (nơi cư trú: Số A, đường L, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh) 02 lần; lần 1 ngày 22/4/2021, bán một gói ma túy loại Heroin (không rõ khối lượng) giá 66.000.000 đồng; lần 2 ngày 12/5/2021, bán một gói ma túy loại Heroin (không rõ khối lượng) giá 40.000.000 đồng.

- Từ tháng 5/2021 đến tháng 6/2021, Nguyễn Hoàng N bán cho Nguyễn Hữu Hoàng D, sinh năm 1997 (nơi cư trú: Tổ A, Phường B, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng) 05 lần; trong đó, 04 lần đầu mỗi lần 10 viên ma túy thuốc lắc, 01 gói ma túy đá và 01 gói ma tuý khay (không rõ khối lượng) với giá 10.200.000 đồng; lần thứ 5, N đã bán cho D 10 viên ma túy thuốc lắc, 01 gói ma túy khay cùng 01 gói ma túy đá (không rõ khối lượng) giá 15.200.000 đồng.

Ngoài ra, quá trình điều tra còn xác định: Nguyễn Hoàng N mua của Lê Thanh H3 hai lần 06 kg ma túy đá vào các ngày 03/6/2021 và 22/6/2021, mỗi lần 03 kg ma túy đá. Ngày 04/7/2021, Nguyễn Hoàng N mua ma túy; sau đó, nhờ Lê Phúc N2 nhận giùm 1.514 viên ma túy loại thuốc lắc, 01 kg ma túy loại ma túy khay mang về đưa lại cho N. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Hoàng N sử dụng điện thoại gọi và nhắn tin, để Lê Xuân M và Nguyễn Toại N4 lấy ma túy của N bán cho: Người tên T10 05 gam ma túy đá; người tên P 100 gam ma túy đá; người tên S 10 gam ma túy đá và 10 viên thuốc lắc; người tên L1 05 gam ma túy khay; người tên Q1 100 gam ma túy đá; người tên V2 100 gam ma túy đá; người tên T11 03 lần 475 gam ma túy đá; người tên D 02 lần 100 gam ma túy đá, 100 viên ma túy thuốc lắc; người tên P1 02 lần 1.200 gam ma túy đá.

Vào lúc 23 giờ 30 phút, ngày 08/7/2021, tại nhà của Nguyễn Hoàng N, thuộc khu C, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Đ (sau đây, gọi tắt là Cơ quan điều tra) kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ của N: 05 gói ni-lon chứa 497 viên nén màu tím; 04 gói ni- lon chứa 303 viên nén màu xanh; 01 gói ni-lon chứa 25 viên nén màu xám và 01 gói ni-lon chứa 05 nửa viên nén màu xám; 01 gói ni-lon chứa 02 viên nén màu xám; 01 gói ni-lon chứa chất bột màu hồng; 05 gói ni-lon chứa tinh thể màu trắng; 02 bánh chất bột màu trắng đục; 01 gói ni-lon chứa chất màu vàng nâu; 01 cân tiểu ly màu đen có chữ Digital Scale; 01 cân tiểu ly màu trắng; 01 khẩu súng bằng kim loại màu trắng, dài khoảng 18 cm có số B61Y2- 20090026; 01 khẩu súng bằng kim loại màu đen, dài khoảng 19 cm có số 061900XXX; 01 hộp tiếp đạn màu đen dài 13 cm có chứa 01 viên đạn kích thước 9 mm màu vàng; 01 hộp tiếp đạn màu đen dài 13 cm có chứa 08 viên đạn kích thước 9 mm màu vàng; 01 ví cá nhân bên trong có 12.000.000 đồng; 01 Giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Hoàng N; 01 thẻ ATM Ngân hàng S1 mang tên Nguyễn Hoàng N; 01 xe ô tô màu trắng biển số 60A-xxxxx cùng giấy đăng ký xe tên Phan Văn D1; 01 máy ép nhiệt màu đen có chữ P280; 01 máy ép nhiệt màu đen có chữ Ronneygye; 01 chai nhựa gắn nỏ thủy tinh; 01 điện thoại di động hiệu Iphone số 0907623235; 01 hộp gỗ kích thước khoảng 20x10x10 cm; 01 tờ giấy chuyển tiền; 02 tờ giấy nộp tiền vào tài khoản ngân hàng; 10 tờ giấy có ghi thông tin mua bán ma túy, 01 cuốn sổ có chữ Bistro- HONGHA; 01 đầu ghi ổ cứng Camera quan sát hiệu @HUA.

1.2. Hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” của Lê Xuân M:

Trong thời gian từ tháng 5/2021 đến ngày 08/7/2021, Lê Xuân M nhiều lần giúp sức cho Nguyễn Hoàng N mua bán ma túy. M giúp N trong việc ghi chép, đối chiếu sổ sách mua bán ma túy, đi nhận ma túy do N mua và đi giao ma túy cho người mua... Ngoài ra, M còn trực tiếp mua ma túy của N, để bán cho người khác kiếm lời.

1.2.1. Hành vi Lê Xuân M đi nhận ma túy do Nguyn Hoàng N mua:

Trong tháng 6/2021 và ngày 08/7/2021, M đã nhận 04 bánh ma túy loại Heroin, khối lượng 1403 gam; 390,5417 gam ma túy loại MDMA gồm 825 viên và 05 nửa viên ma túy loại thuốc lắc (05 gói ni-lon chứa 497 viên nén màu tím là ma túy có khối lượng 223 gam loại MDMA; 04 gói ni -lon chứa 303 viên nén màu xanh là ma túy có khối lượng 149 gam loại MDMA; 01 gói ni-lon chứa 25 viên nén màu xám và 01 gói ni-lon chứa 05 nửa viên nén màu xám là ma túy, có khối lượng 13,6388 gam loại MDMA); 01 gói ni-lon chứa 02 viên nén màu xám là ma túy, có khối lượng 0,8724 gam loại Ketamine; 01 gói là ma túy khối lượng 4,7441 gam loại Ketamine (tổng cộng 6,0511 gam ma túy loại Ketamine); 309,2523 gam ma túy loại Methamphetamine; mang về cho N, cụ thể:

- Ngày 12/6/2021, M nhận 230.000.000 đồng từ tài khoản ngân hàng của N, M chuyển tiếp số tiền này đến tài khoản ngân hàng tên Dương Trần A Đ. Chuyển tiền xong, M liên hệ với Trần Thị K và đi đến khu vực N, thuộc Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh gặp K, nhận 02 bánh ma túy loại Heroin khối lượng 700 gam, mang về đưa cho N.

- Vào đêm ngày 08/7/2021, tại nhà của N, N đưa cho M 1.500.000 đồng, để M trả tiền và nhận của người giao hàng (shipper) một hộp giấy, bên trong có ma túy mang vào đưa cho N, gồm: 02 bánh ma túy khối lượng 703 gam ma túy loại Heroin; 390,5417 gam ma túy loại MDMA; 309,2523 gam ma túy loại Methamphetamine; 6,0511 gam ma túy loại Ketamine. Sau đó, M lấy một gói ma túy đá, phân làm 10 gói nhỏ khối lượng 95,2523 gam loại Methamphetamine bán cho Nguyễn Toại N4 theo yêu cầu của N. Tất cả số ma túy này, đã bị Cơ quan điều tra phát hiện và thu giữ.

Ngoài ra, kết quả điều tra thể hiện M 02 lần nhận 06 kg ma túy đá của một người nam giới (không biết tên) tại khu vực phường H, thành phố B, mang về giao lại cho Nguyễn Hoàng N; tuy nhiên, Lê Xuân M và Nguyễn Hoàng N không thừa nhận.

1.2.2. Lê Xuân M đi bán ma túy cho người mua (theo yêu cầu của Nguyễn Hoàng N):

Trong thời gian từ tháng 6/2021 đến ngày 08/7/2021, Lê Xuân M đã nhiều lần giúp Nguyễn Hoàng N bán ma túy cho nhiều người khác.

- Ngày 12/6/2021, M lấy 50 gam ma túy đá, 135 gam ma túy khay cùng 10 viên ma túy thuốc lắc giao cho Nguyễn Toại N4, để Nguyện mang về xã X, huyện c đưa cho N, để N bán cho người khác.

- Ngày 08/7/2021, bán cho Nguyễn Toại N4 10 gói ma túy đá khối lượng 95,2523 gam loại Methamphetamine, 01 gói ma túy khay khối lượng 0,4346 gam loại Ketamine.

Ngoài ra, qua kết quả kiểm tra điện thoại, tin nhắn, giấy tờ ghi chép do Cơ quan điều tra thu giữ thì Lê Xuân M còn bán cho nhiều người khác nhưng M không thừa nhận như:

- Ngày 11/6/2021, M lấy 50 gam ma túy đá bán cho người phụ nữ tên T10 ở khu vực cầu S, thuộc phường T, thành phố B.

- Ngày 17/6/2021, thông qua tin nhắn Zalo M2 lấy 100 gam ma túy đá bán cho đối tượng tên p ở khu vực phường A, thành phố B; 10 gam ma túy đá và 10 viên thuốc lắc bán cho người tên S ở Khu Công nghiệp L, thuộc huyện L; 100 gam ma túy đá bán cho Trần H2 ở xã X, huyện C; 500 gam ma túy đá bán cho người tên D1 ở thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Những người này không đưa tiền cho M2 mà trả tiền cho N; sau khi bán xong, M2 ghi vào sổ và báo lại cho N biết.

- Ngày 20/6/2021, M2 lấy 05 gam ma túy khay bán cho đối tượng tên L1 ở thành phố B, tỉnh Lâm Đồng và bán 100 gam ma túy đá bán cho người tên Q1 ở thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

- Ngày 05/7/2021, M2 bán cho người tên V2 ở khu C, thị trấn L, huyện L 100 gam ma túy đá.

- Lê Xuân M lấy ma túy bán cho người tên D2 ở Bình Định 02 lần: Ngày 25/6/2021, M lấy 100 gam ma túy đá gửi xe khách chuyển cho D2; ngày 28/6/2021, M lấy 100 viên ma túy thuốc lắc, thuê xe ô tô mang ra Bình Định bán cho D2.

- Lê Xuân M bán cho người tên T11 ở khu C, thị trấn L, huyện L 03 lần 475 gam ma túy đá (ngày 12/6/2021, bán 125 gam ma túy đá; ngày 17/6/2021, bán 250 gam ma túy đá và ngày 01/7/2021, bán 100 gam ma túy đá).

- Lê Xuân M bán cho người tên P1 ở Quảng Ngãi 02 lần: Ngày 12/6/2021, M bán 200 gam ma túy đá gửi xe khách cho P1; ngày 27/6/2021, M bán 01 kg ma túy đá, thuê xe ô tô mang đi Quảng Ngãi giao cho Pl.

1.2.3. Lê Xuân M trực tiếp mua bán ma túy:

Lê Xuân M nhiều lần mua ma túy của Nguyễn Hoàng N, để bán cho người khác, cụ thể:

- Tháng 6/2021, M bán cho Lê Phúc N2 (bị cáo trong vụ án) 03 lần 03 gói ma túy đá (không rõ khối lượng) giá 143.000.000 đồng: Ngày 22/6/2021, bán 01 gói ma túy đá giá 5.000.000 đồng; ngày 24/6/2021, bán 01 gói ma túy đá giá 70.000.000 đồng; ngày 25/6/2021, bán 01 gói ma túy đá giá 68.000.000 đồng.

- Ngày 01/7/2021, M bán cho người nam giới tên H4 20 gam ma túy đá với giá 8.000.000 đồng.

- Ngày 07/6/2021, M mua của N 100 gam ma túy đá với giá 27.000.000 đồng; đến ngày 08/6/2021, M bán cho Trần Thị Minh H5, sinh năm 1985 (nơi cư trú: số I, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương) 100 gam ma túy đá với với giá 32.000.000 đồng.

Lúc 21 giờ 30 ngày 09/7/2021, Cơ quan điều tra thực hiện giữ người trong trường hợp khẩn cấp, khám xét khẩn cấp đối với Lê Xuân M, thu giữ: 01 gói ni-lon bên trong có chứa tinh thể màu trắng kích thước 4x8 cm; 01 bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh; 01 cuốn vở học sinh có chữ Vibook bên trong có 02 trang ghi chữ và số nghi ghi chép nội dung mua bán ma túy; 16 tờ giấy hiệu Hồng Hà ghi chữ và số nghi ghi chép nội dung mua bán ma túy; 01 điện thoại di động có chữ ULEPHONE số 0944201279 và 0879115726; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 0908535132; 01 ví cá nhân bên trong có 2.000.000 đồng, 01 Giấy chứng minh nhân dân tên Lê Xuân M.

1.3. Hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” của Nguyễn Toại N4:

Thời gian từ tháng 4/2021 đến ngày 08/7/2021, Nguyễn Toại N4 nhiều lần giúp sức cho Nguyễn Hoàng N mua bán ma túy, cụ thể:

Nguyện 02 lần giúp N bán ma túy cho Đoàn Thị Thanh V1: Lần 1, vào khoảng đầu tháng 4/2021, N đưa cho N4 01 gói ma túy (không rõ khối lượng) để Nguyện mang về xã X, huyện C đưa cho V1; lần 2, ngày 11/6/2021, N4 tiếp tục nhận một gói ma túy của N mang ra khu vực cầu vượt cao tốc L - D thuộc huyện L đưa cho V1.

Ngày 12/6/2021, N4 nhận 50 gam ma túy đá, 135 gam ma túy khay cùng 10 viên ma túy thuốc lắc do Lê Xuân M đưa tại huyện L; sau đó, mang về đưa cho N tại xã X, huyện C để N bán cho người khác.

Trong thời gian đi cùng N, giúp N trong công việc thì ngày 07/7/2021, N4 được N cho 01 gói ma túy khay khối lượng 0,4346 gam loại Ketamine. Ngoài ra, N4 còn mua ma túy của N để bán lại cho người khác, cụ thể: Đêm ngày 08/7/2021, N4 mua 10 gói ma túy đá khối lượng 95,2523 gam loại Methamphetamine của N với giá 28.000.000 đồng; sau đó, N4 cất giấu ở phía sau cốp xe ô tô cùng gói ma túy khay của N cho, nhằm mục đích sử dụng và bán lại thì bị phát hiện và thu giữ.

Vào lúc 03 giờ 20 phút ngày 09/7/2021, Cơ quan điều tra kiểm tra thu giữ của Nguyễn Toại N4: 01 xe ô tô biển số 60A - xxxxx; 10 gói ni-lon kích thước 4x8 cm trong mỗi gói này có chứa chất màu trắng; 01 gói ni-lon kích thước 13x8 cm chứa chất màu trắng; 01 giấy đăng ký xe ô tô tên Phạm Thị Thanh T5; 01 Giấy chứng minh nhân dân và 01 thẻ ATM Ngân hàng S1 mang tên Nguyễn Toại N4; 01 điện thoại di động hiệu Samsung số sim 0352735xxx; 1.240.000 đồng (một triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng).

1.4. Hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” của Trần Thị K:

Vào sáng ngày 12/6/2021, Nguyễn Hoàng N sử dụng điện thoại liên lạc với Trần Thị K, cùng thỏa thuận mua 02 bánh ma túy loại Heroin có khối lượng 700 gam (350 gam/01 bánh Heroin) giá 640.000.000 đồng (320.000.000 đồng/01 bánh), K đồng ý và yêu cầu N trả tiền trước. N chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng cho K; sau đó, K liên hệ với người tên D1 (không rõ lai lịch) ở Thành phố Hồ Chí Minh mua 02 bánh ma túy loại Heroin khối lượng 700 gam giá 600.000.000 đồng. Sau khi nhận được 02 bánh ma túy loại Heroin; đến trưa ngày 12/6/2021, K hẹn Nam giao ma túy ở khu vực N thuộc Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. N nhờ Lê Xuân M đến gặp Kim nhận 02 bánh ma túy loại H6 và mang về cho N.

1.5. Hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” của Lê Phúc N2:

Khoảng tháng 5/2021, Lê Phúc N2 gặp và quen biết Nguyễn Hoàng N, nhiều lần đến nhà N thuê tại khu C, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ chơi; tại đây, N2 gặp Lê Xuân M. N biết N hoạt động mua bán ma túy và biết Lê Xuân M là người giúp N mua bán ma túy, nên N2 nhiều lần mua ma túy của N và M. Lê Phúc N2 06 lần mua ma túy của Nguyễn Hoàng N tại khu vực đường V, phường Q, thành phố B, cụ thể:

- Lần 1: Khoảng đầu tháng 5/2021, mua 01 gói ma túy đá (không rõ khối lượng) giá 44.000.000 đồng;

- Lần 2: Ngày 15/5/2021, mua 01 gói ma túy khay (không rõ khối lượng) giá 13.000.000 đồng;

- Lần 3: Đầu tháng 6/2021, mua 01 gói ma túy đá (không rồ khối lượng) giá 32.000.000 đồng;

- Lần 4: Vào giữa tháng 6/2021, mua 01 gói ma túy khay (không rồ khối lượng) giá 50.000.000 đồng;

- Lần 5: Ngày 02/7/2021, mua 650 gam ma túy khay giá 325.000.000 đồng;

- Lần 6: Ngày 03/7/2021, mua 600 gam ma túy đá và 17,5 gam ma túy khay, giá 190.000.000 đồng.

Ngoài ra, ngày 04/7/2021, N2 giúp N nhận 1.014 viên ma túy loại thuốc lắc màu tím, 500 viên ma túy loại thuốc lắc màu xanh từ một người tên H7 tại chung cư P, thuộc phường Q, thành phố B, mang về đưa cho N tại nhà N thuê ở khu C, thị trấn L, huyện L.

Lê Phúc N2 03 lần mua 03 gói ma túy đá (không rồ khối lượng) của Lê Xuân M khu vực đường V, phường Q, thành phố B với tổng số tiền 143.000.000 đồng vào các ngày 22, 24 và 26-6-2021. Sau khi mua được ma túy của Nguyễn Hoàng N và Lê Xuân M, Lê Phúc N2 đã sử dụng và bán hết cho nhiều đối tượng khác (không rõ lai lịch).

2. Giám định (các bút lục số 140-141, 145, 149):

1/ Tại Kết luận giám định số: 1474/KLGĐ-PC09 ngày 16/7/2021 của Phòng K1 - Công an tỉnh Đ, kết luận về số ma túy thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Hoàng N:

“Mẫu chất bột màu trắng (Kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 703,00 gam loại Heroin”.

“Mẫu 497 (bốn trăm chín mươi bảy) viên nén hình tam giác màu tím (Kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 223,00 gam loại MDMA”.

“Mẫu 300 (ba trăm) viên nén hình tam giác màu xanh (Kí hiệu M3) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 149,00 gam loại MDMA”.

“Mẫu 03 (ba) viên nén hình tam giác màu xanh (Kí hiệu M4) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,0867 gam loại MDMA”.

“Mẫu 25 (hai mươi lăm) viên nén hình tam giác màu xám và 01 (một) gói nylon chứa 05 (năm) nửa viên nén màu xám (Kí hiệu M5) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 13,6388 gam loại MDMA”.

“Mẫu 02 (hai) viên nén hình tam giác màu xám (Kí hiệu M6) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,8724 gam loại Ketamine”.

“Mẫu 04 (bốn) gói tinh thể màu trắng (Kí hiệu M7) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 214,00 gam loại Methamphetamine”.

“Mẫu 01 (một) gói nylon chứa chất bột màu hồng (Kí hiệu M8) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 3,8162 gam loại MDMA”.

“Mẫu 01 (một) gói nylon chứa chất bột màu nâu (Kí hiệu M9) được niêm phong gửi đến giám định là không phải là ma túy, có khối lượng: 8,6616 gam loại Bacitracin”.

“Mẫu 01 (một) gói tinh thể màu trắng (Kí hiệu M10) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 4,7441 gam loại Ketamine”.

2/ Tại Kết luận giám định số: 1473/KLGĐ-PC09 ngày 13/7/2021 của Phòng K1 - Công an tỉnh Đ, kết luận về số ma túy thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Toại N4:

“Mẫu tinh thể màu trắng (Kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 95,2523 gam loại Methamphetamine”.

“Mẫu tinh thể màu trắng (Kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,4346 gam loại Ketamine”.

3/ Tại Kết luận giám định số: 1470/KLGĐ-PC09 ngày 14/7/2021 của Phòng K1 - Công an tỉnh Đ, kết luận về số ma túy thu giữ khi khám xét Lê Xuân M:

“Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,4011 gam loại Methamphetamine”.

4/ Kết luận giám định số: 4229/C09B ngày 05/11/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận về 02 khẩu súng và 09 viên đạn thu giữ của Nguyễn Hoàng N:

- Khẩu súng hiệu Blow C75, số hiệu B61Y2-20090026 và khẩu súng hiệu Starlker 917- D9, số hiệu 061900XXX là công cụ hỗ trợ cỡ 9mm; không phải là vũ khí quân dụng.

- 09 viên đạn có ký hiệu YAS GLD 9mm PAK là đạn công cụ hỗ trợ cỡ 9mm, thường sử dụng để bắn cho các loại súng công cụ hỗ trợ cỡ 9mm; không phải vũ khí quân dụng.

3. Nội dung khác có liên quan:

Đối với các đối tượng bán ma túy: Người tên D1 bán ma túy cho Trần Thị K; Châu Thái H1, Lê Thanh H3, người tên T4, người tên L bán ma túy cho Nguyễn Hoàng N; Nguyễn Thị Kiều M3 (có liên quan đến Lê Xuân M chuyển tiền). Các đối tượng mua ma túy gồm: Nguyễn Hữu Hoàng D, Đoàn Thị Thanh V1, Phạm Chí T9, Lê Minh T8, Trần H2, Trần Thị Minh H5, người tên H4, người tên T10, người tên P, người tên S, người tên D, người tên L1, người tên Q1, người tên D2, người tên TI 1, người tên Pl, người có tài khoản Zalo “A Cương Bình Định”, Lê Thị Linh E và Nguyễn Hoàng Như V3 liên quan đến chuyển tiền, người tên T4 (gửi cho N 02 khẩu súng, 09 viên đạn là công cụ hỗ trợ không phải là vũ khí quân dụng) Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ và đề nghị xử lý sau.

Đối với Trần Hồng H8 là nhân viên giao hàng, không biết các gói hàng của H1 gửi cho N, N4; Dương Trần Anh Đ1, Nguyễn Thị L2, Lê Thị Thu H9, Phạm Thị X, Lìu A, Nguyễn Thị Tuyết M4 và Võ Văn N5 có tài khoản ngân hàng chuyển tiền liên quan tới Nguyễn Hoàng N. Những người này không biết, không tham gia vào hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Đối với Trần Yến L3 là người sử dụng trái phép chất ma túy không liên quan đến hành vi bán ma túy, đã bị xử phạt hành chính.

4. Cáo trạng và trình bày của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Cáo trạng số: 60/CT-VKS-P1 ngày 28 tháng 3 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đ, đã quyết định truy tố:

- Nguyễn Hoàng N, Lê Xuân M, Lê Phúc N2 và Nguyễn Toại N4 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

- Trần Thị K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

1/ Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s (chỉ áp dụng với bị cáo N2) khoản 1, 2 Điều 51, điểm g, h (chỉ áp dụng với bị cáo N) khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng N: Tử hình.

- Xử phạt bị cáo Lê Xuân M: Tử hình.

- Xử phạt bị cáo Lê Phúc N2: 20 năm tù.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Toại N4: 20 năm tù.

2/ Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điềm n, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Thị K: Tù chung thân.

3/ Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đề nghị giải quyết theo cáo trạng đã quyết định.

5. Trình bày của các bị cáo tại phiên tòa:

5.1. Bị cáo Nguyn Hoàng N:

Bị cáo thừa nhận có hành vi mua bán ma túy và phạm tội theo điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; tuy nhiên, bị cáo chỉ bán ma túy đá cho Nguyễn Toại N4 01 lần, bán cho Lê Phúc N2 02 lần và bán cho Lê Minh T8 02 lần. 02 bánh Heroin của bị cáo Trần Thị K thì bị cáo chỉ chuyển tiền dùm cho người khác, bản thân bị cáo không mua ma túy của bị cáo K. Đối với kết luận của cáo trạng, bị cáo chỉ thừa nhận số lượng ma túy sau đây là của bị cáo: 390,5417 gam ma túy loại MDMA; 6,0511gam ma túy loại Ketamine và 703,00 gam ma túy loại Heroin. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại khối lượng ma túy quy kết cho bị cáo.

5.2. Các bị cáo Lê Xuân M và N Toại N4:

Các bị cáo thừa nhận có hành vi mua bán ma túy và phạm tội theo điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; tuy nhiên, khối lượng ma túy theo cáo trạng nêu là không đúng; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại.

5.3. Các bị cáo Trần Thị K và Lê Phúc N2:

Các bị cáo vẫn giữ nguyên ý kiến và lời khai trong quá trình điều tra và truy tố; đồng thời, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu.

6. Người bào chữa cho các bị cáo trình bày tại phiên tòa:

6.1. Người bào chữa cho các bị cáo N Hoàng N, Lê Xuân M và Nguyn Toại N4:

Về tội danh: Không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát.

Về chứng cứ: Cáo trạng quy kết bị cáo Nguyễn Hoàng N có hành vi mua 02 bánh Heroin của bị cáo Trần Thị K là chưa đủ cơ sở. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa mâu thuẫn với lời khai trong quá trình điều tra nhưng chưa được đối chất, làm rõ. Đề nghị Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ, để điều tra bổ sung.

6.2. Người bào chữa cho các bị cáo Lê Phúc N2 và Trần Thị K:

Về tội danh: Thống nhất với quan điểm truy tố của cáo trạng.

Về hình phạt: Các bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bị cáo Trần Thị K phạm tội do thiếu hiểu biết pháp luật và phụ nữ có thai. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định dưới khung hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ.

[2] Về tội danh bị truy tố:

2.1. Các bị cáo Nguyn Hoàng N, Lê Xuân M và Nguyn Toại N4:

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Hoàng N, Lê Xuân M và Nguyễn Toại N4 thừa nhận có hành vi và phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; tuy nhiên, khối lượng mua bán ma túy như cáo trạng đã mô tả và kết luận là không đúng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại.

Căn cứ khối lượng ma túy thu giữ, lời khai trong quá trình điều tra của bị cáo Lê Xuân M, bị cáo Nguyễn Toại N4, các đối tượng mua ma túy của Nguyễn Hoàng N, kết luận giám định, trích xuất dữ liệu điện tử từ điện thoại di động, sao kê tài khoản ngân hàng, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận như sau:

- Đối với Nguyn Hoàng N:

+ Từ tháng 02/2021 đến ngày 08/7/2021, Nguyễn Hoàng N đã nhiều lần mua nhiều loại ma túy của Trần Thị K, Châu Thái H1, người tên L, người tên T4... 2.353 viên và 05 nửa viên ma túy loại thuốc lắc, 802.45 gam ma túy khay, 1220 gam ma túy đá, 310,6534 gam ma túy loại Methamphetamine, 6,0511 gam ma túy loại Ketamine, 04 bánh ma túy loại Heroin khối lượng 1403 gam. Trong số ma túy này, N đã bán cho nhiều người; trong đó, có Lê Xuân M, Nguyễn Toại N4, Lê Phúc N2, Đoàn Thị Thanh V1, Trần H2, Lê Minh T8, Nguyễn Hữu Hoàng D, Phạm Chí T9, người tên V2, T11, T10, P1, P, S, L1, D2...; số ma túy còn lại, N tiếp tục cất giấu tại nhà của mình, thuộc khu C, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ; đến ngày 08/7/2021, Nam bị Công an huyện L kiểm tra, phát hiện và thu giữ khối lượng lớn ma túy.

+ Nguyễn Hoàng N đã có hành vi mua bán trái phép 1403 gam ma túy loại Heroin; 390,5417 gamma túy loại MDMA; 310,6534 gam ma túy loại Methamphetamine và 6,0511gam ma túy loại Ketamine (trong đó, thu của N: 703,00 gam ma túy loại Heroin, 390,5417 gam ma túy loại MDMA, 214,00 gam ma túy loại Methamphetamine và 5,6165 gam ma túy loại Ketamine; thu của bị cáo Nguyễn Toại N4 95,2523 gam ma túy loại Methamphetamine và 0,4346 gam ma túy loại Ketamine; thu của bị cáo Lê Xuân M 1,4011 gam ma túy loại Methamphetamine); 802,45 gam ma túy khay; 1220 gam ma túy đá; 1.524 viên ma túy thuốc lắc.

- Đối với Lê Xuân M:

+ Từ tháng 5/2021 đến ngày 08/7/2021, M nhiều lần giúp sức cho Nguyễn Hoàng N mua bán trái phép 04 bánh ma túy khối lượng 1403 gam loại Heroin; 839 viên và 05 nửa viên ma túy loại thuốc lắc, 135 gam ma túy khay, 50 gam ma túy đá, 310,6534 gam ma túy loại Methamphetamine, 6,0511 gam ma túy loại Ketamine, 390,5417 gam ma túy loại MDMA. Ngoài ra, Lê Xuân M còn mua của N 120 gam ma túy đá, 03 gói ma túy đá (không rõ khối lượng); sau đó, bán cho: Người nam giới tên H4 20 gam ma túy đá với giá 8.000.000 đồng; Trần Thị Minh H5 100 gam ma túy đá với giá 32.000.000 đồng; Lê Phúc N2 03 lần 03 gói ma túy đá (không rõ khối lượng) với giá 143.000.000 đồng. Ngày 09/7/2021, Cơ quan điều tra ra lệnh bắt, khám xét khẩn cấp đối với Lê Xuân M, thu giữ tại nơi ở của M01 gói tinh thể màu trắng là ma túy, có khối lượng 1,4011 gam loại Methamphetamine.

+ Lê Xuân M đã có hành vi mua bán trái phép 1403 gam ma túy loại Heroin, 390,5417 gamma túy loại MDMA, 310,6534 gam ma túy loại Methamphetamine, 6,0511 gam ma túy loại Ketamine, 170 gam ma túy đá, 135 gam ma túy khay và 10 viên ma túy loại thuốc lắc.

- Đối với Nguyễn Toại N4:

+ Trong thời gian từ tháng 4/2021 đến ngày 08/7/2021, N4 nhiều lần giúp sức cho Nguyễn Hoàng N trong việc bán ma túy, cụ thể: 02 lần bán ma túy cho Đoàn Thị Thanh V1; nhận từ Lê Xuân M 50 gam ma túy đá, 135 gam ma túy khay, 10 viên ma túy loại thuốc lắc từ huyện L, mang về xã X, huyện C đưa cho Nguyễn Hoàng N, để N bán cho người khác.

+ Ngày 07/7/2021, N4 mua của N 10 gói ma túy đá khối lượng 95,2523 gam loại Methamphetamine và nhận của N 01 gói ma túy khay khối lượng 0,4346 gam loại Ketamine. Vào lúc 03 giờ 20 phút ngày 09/7/2021, Cơ quan điều tra kiểm tra xe ô tô biển số 60A-xxxxx do Nguyễn Toại N4 điều khiển, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ của N4: 10 gói ni-lon kích thước 4x8 cm trong mỗi gói này có chứa chất bột màu trắng là ma túy, có khối lượng 95,2523 gam loại Methamphetamine; 01 gói ni-lon kích thước 13x8 cm trong chứa chất bột màu trắng là ma túy, có khối lượng 0,4346 gam loại Ketamine.

+ Nguyễn Toại N4 đã có hành vi mua bán trái phép 95,2523 gam ma túy loại Methamphetamine; 0,4346 gam ma túy loại Ketamine; 50 gam ma túy đá; 135 gam ma tuý khay và 10 viên ma túy thuốc lắc.

- Từ những nội dung trên, cáo trạng truy tố là có căn cứ, hành vi của các bị cáo Nguyễn Hoàng N, Lê Xuân M và Nguyễn Toại N4 đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

2.1. Các bị cáo Trần Thị K và Lê Phúc N2:

Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Thị K và Lê Phúc N2 thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã mô tả. Trình bày của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; có đủ cơ sở để kết luận như sau:

- Đối với Trần Thị K: Ngày 12/6/2021, K sử dụng điện thoại di động, liên lạc và thỏa thuận bán cho Nguyễn Hoàng N 02 (hai) bánh ma túy loại Heroin có khối lượng 700 gam (350 gam/01 bánh Heroin), giá 640.000.000 đồng (320.000.000 đồng/01 bánh); Nguyễn Hoàng N đã chuyển khoản thanh toán cho K số tiền này. Sau đó, K liên hệ với người tên D (không rõ họ tên, địa chỉ) mua 02 bánh Heroin có khối lượng 700 gam giá 600.000.000 đồng và giao cho Lê Xuân M tại khu vực N, thuộc Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, để M mang về cho N. Trần Thị K đã có hành vi mua bán trái phép 02 bánh ma túy loại Heroin khối lượng 700 gam. Hành vi của bị cáo Trần Thị Kim đ yếu tố cấu thành tội phạm “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Đối với Lê Phúc N2:

+ Từ đầu tháng 5/2021 đến ngày 03/7/2021, N2 06 lần mua của Nguyễn Hoàng N, gồm: Mua 02 gói ma túy đá (không rồ khối lượng) giá 76.000.000 đồng; 02 gói ma túy khay (không rỗ khối lượng) giá 63.000.000 đồng; 667,5 gam ma túy khay và 600 gam ma túy đá. N mua của Lê Xuân M 03 lần 03 gói ma túy đá (không rõ khối lượng) giá 143.000.000 đồng, số ma túy trên, N2 đã bán lại cho nhiều người khác không rõ họ tên địa chỉ.

+ Ngoài ra, ngày 04/7/2021, N2 giúp N nhận 1514 viên ma túy loại thuốc lắc của N mua mang từ thành phố B về huyện L, tỉnh Đ cho Nguyễn Hoàng N.

+ Lê Phúc N2 đã có hành vi mua bán trái phép 667,5 gam ma túy khay; 600 gam ma túy đá; 1514 viên ma túy thuốc lắc. Hành vi của bị cáo Lê Phúc N2 đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về trách nhiệm hình sự:

3.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Các bị cáo Nguyễn Hoàng N và Trần Thị K phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Các bị cáo Nguyễn Hoàng N, Lê Xuân M, Nguyễn Toại N4 và Lê Phúc N2 “phạm tội 02 lần trở lên”, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Lê Phúc N2 phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm”, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

3.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo Trần Thị K và Lê Phúc N2 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Khi phạm tội, Trần Thị K là phụ nữ đang mang thai và hiện nay có nhiều con còn nhỏ. Các tình tiết này, được quy định tại điểm n, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

3.3. Về hình phạt và biện pháp ngăn chặn:

Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội và các bị cáo đều có nhân thân xấu; do đó, cần có hình phạt phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo, cụ thể như sau:

- Các bị cáo Nguyễn Hoàng N và Lê Xuân M phạm tội mua bán trái phép chất ma túy với số lượng đặc biệt lớn, bất chấp pháp luật và không còn khả năng cải tạo; nên cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt bị áp dụng.

- Bị cáo Trần Thị K có hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; tuy nhiên, khi phạm tội bị cáo K đang mang thai (bút lục từ 1.669 đến 1.674), nên theo chính sách khoan hồng của pháp luật, không áp dụng hình phạt cao nhất đối với bị cáo K, nhưng cần cách ly vĩnh viễn bị cáo ra khỏi xã hội.

- Các bị cáo Nguyễn Toại N4 và Lê Phúc N2 cần áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo, để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo Nguyễn Hoàng N, Lê Xuân M, Lê Phúc N2 và Nguyễn Toại N4 theo quy định của pháp luật, để bảo đảm cho công tác thi hành án.

[4] Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và công cụ phương tiện liên quan; đồng thời, tịch thu tiêu hủy súng và đạn không phải là vũ khí quân dụng.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước các công cụ, phương tiện liên quan đến việc phạm tội.

- Các vật chứng là tài liệu giấy, được đóng bút lục và lưu vào hồ sơ vụ án.

- Trả lại tài sản không liên quan đến việc phạm tội.

- Cơ quan điều tra đã trả lại: 01 xe ô tô màu trắng biển số 60A-xxxxx cùng giấy đăng ký xe tên Phan Văn D1 và 01 xe ô tô biển số 60A-xxxxx, 01 giấy đăng ký xe ô tô tên Phạm Thị Thanh T5 cho chủ sở hữu.

[5] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, các bị cáo và người bào chữa tại phiên tòa:

- Chấp nhận quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

- Chấp nhận một phần quan điểm của người bào chữa cho các bị cáo Trần Thị K và Lê Phúc N2.

- Không chấp nhận quan điểm của người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Hoàng N, Lê Xuân M và Nguyễn Toại N4.

- Đối với phần trình bày của các bị cáo tại phiên tòa như đã nhận định ở trên, đã được Hội đồng xét xử xem xét và đánh giá toàn diện.

Vì các lẽ trên;

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng N, Lê Xuân M, Lê Phúc N2 và Nguyễn Toại N4 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Trần Thị K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

2. Hình phạt:

2.1. Đối với bị cáo Nguyễn Hoàng N:

Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 58 và Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); căn cứ khoản 4 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng N hình phạt tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Hoàng N, để đảm bảo thi hành án.

2.2. Đối với bị cáo Lê Xuân M:

Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 và Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); căn cứ khoản 4 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Xuân M hình phạt tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Xuân M, để đảm bảo thi hành án.

2.3. Đối với bị cáo Trần Thị K:

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm n, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 55; khoản 1 Điều 56; Điều 58 và Điều 39 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Xử phạt bị cáo Trần Thị K hình phạt tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” trong vụ án này.

- Tổng hợp với hình phạt tù chung thân tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 610/2022/HS-ST ngày 27-12-2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Buộc bị cáo Trần Thị K phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 12-6-2021.

2.4. Đối với bị cáo Lê Phúc N2:

Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 55; khoản 1 Điều 56; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Xử phạt bị cáo Lê Phúc N hình p 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” trong vụ án này.

- Tổng hợp với hình phạt 17 (mười bảy) năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 72/2022/HS-ST ngày 31-5-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ. Buộc bị cáo Lê Phúc N2 phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 30 (ba mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05-9-2021.

2.5. Đối với bị cáo Nguyễn Toại N4:

Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Toại N4 hình phạt 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 09-7-2021.

3. Biện pháp ngăn chặn:

Căn cứ khoản 1 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tiếp tục tạm giam các bị cáo Lê Phúc N2 và Nguyễn Toại N4, theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử, để bảo đảm thi hành án.

4. Xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Áp dụng Điều 46 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, gồm: 01 gói niêm phong vụ số 1470/KLGĐ-PC09 ngày 15/7/2021 đối tượng Lê Xuân M, 01 gói niêm phong vụ số 1473 đối tượng Nguyễn Toại N4 và 01 gói niêm phong vụ số 1474 đối tượng Nguyễn Hoàng N.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 khẩu súng bằng kim loại màu trắng, dài khoảng 18 cm có số B61Y2-20090026; 01 khẩu súng bằng kim loại màu đen, dài khoảng 19 cm có số 061900XXX; 01 hộp tiếp đạn màu đen dài 13 cm có chứa 01 viên đạn kích thước 9 mm màu vàng; 01 hộp tiếp đạn màu đen dài 13 cm có chứa 06 viên đạn kích thước 9 mm màu vàng; 02 chai nhựa có gắn nỏ thủy tinh và 01 hộp gỗ kích thước khoảng 20x10x10 cm (không có gì bên trong).

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 cân tiểu ly màu đen có chữ Digital Scale; 01 cân tiểu ly màu trắng; 01 máy ép nhiệt màu đen có chữ P280; 01 máy ép nhiệt màu đen có chừ Ronegye; 01 điện thoại di động có ghi chữ Iphone 12 kèm sim của Nguyễn Hoàng N; 01 điện thoại di động có chữ ULEPHONE kèm sim Lê Xuân M; 01 điện thoại di động có ghi chữ Iphone kèm sim của Lê Xuân M; 01 điện thoại di động có ghi chữ Samsung kèm sim của Nguyễn Toại N4.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hoàng N: 01 đầu ghi ổ cứng Camera quan sát hiệu @HUA; 01 chứng minh nhân dân tên Nguyễn Hoàng N, 01 thẻ ATM ngân hàng S1 tên Nguyễn Hoàng N, 01 ví cá nhân của Nguyễn Hoàng N và số tiền 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng).

- Trả lại cho bị cáo Lê Xuân M: 01 chứng minh nhân dân tên Lê Xuân M, 01 ví cá nhân của Lê Xuân M và số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Toại N4: 01 chứng minh nhân dân tên Nguyễn Toại N4, 01 thẻ ATM ngân hàng S1 tên Nguyễn Toại N4 và số tiền 1.240.000 đồng (một triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng).

Các vật chứng và s tiền nêu trên, đang lưu giữ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đ, theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30-3-2023, phiếu nhập: NK23/085; Ủy nhiệm chi số: 03/UNC ngày 20-4-2023 của Kho bạc Nhà nước Đ2, do Cơ quan điều tra chuyến vào tài khoản của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đ.

5. Án phí:

Buộc các bị cáo Nguyễn Hoàng N, Lê Xuân M, Lê Phúc N2, Trần Thị K và Nguyễn Toại N4, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo:

Các bị cáo Nguyễn Hoàng N, Lê Xuân M, Lê Phúc N2, Trần Thị K và Nguyễn Toại N4 được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 126/2023/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:126/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;