Bản án 126/2019/HSST ngày 17/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 126/2019/HSST NGÀY 17/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 17 tháng 9 năm 2019. Tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 124/2019/HSST ngày 29 tháng 8 năm 2019; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2019/QĐ-HSST ngày 05 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: NGUYỄN CÔNG M. Sinh ngày 12 tháng 4 năm 1993. Nơi sinh: Nghệ An. Nơi ĐKNKTT: Xóm L, xã V, huyện K, Nghệ An. Chỗ ở: Xóm L, xã V, huyện K, Nghệ An. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: Lớp 12/12. Con ông: Nguyễn Công H, sinh năm 1962; Con bà: Trần Thị N, sinh năm 1961. Hiện ở tại: Xóm L, xã V, huyện K, Nghệ An. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Tại bản án số 277/2017/HSST ngày 08/8/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí M xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/12/2018, chưa chấp hành nghĩa vụ bồi thường dân sự. Tiền sự: Không. Bị bắt ngày 04/5/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Có mặt.

Nguyên đơn dân sựCửa hàng F tại số: 114 - Đường 3 tháng 2, Phường 5, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Do Chị Nguyễn Thị Thùy T, sinh năm 1989. Hộ khẩu thường trú: 128B – Đường T, Phường S, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Chức vụ: Quản lý Cửa hàng đại diện. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 01/5/2019, Nguyễn Công M từ Thành phố Hồ Chí M lên thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng để du lịch, M thuê phòng nghỉ tại Nhà nghỉ Kim Chi ở đường Đào Duy Từ, Phường 4, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng để nghỉ. Do không có tiền tiêu xài, khoảng 21 giờ 30 ngày 03/5/2019, M đến Cửa hàng di động FPT shop để tìm tài sản trộm cắp. Thực hiện ý định, M vào trong Cửa hàng, đến gian trưng bày sản phẩm giả vờ xem hàng thì có một nhân viên nữ đến tư vấn nên M bảo nhân viên này đi vào, khi nào cần M sẽ gọi. Khi nhân viên đã đi vào trong, M quan sát thấy các nhân viên ở đây không ai chú ý đến mình nên M đã thò tay lấy một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10+, màu trắng ngọc trai rồi giật đứt sợi dây báo động đang gắn ở đuôi của điện thoại và bỏ ra khỏi Cửa hàng, đem điện thoại về Nhà nghỉ C ở đường T ngủ. Đến khoảng 12 giờ ngày 04/5/2019, khi M đang đi ăn trưa tại Quán Ba Toa, Phường 5, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng thì bị Công an Phường 5, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng phát hiện, thu giữ 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10+ mà M trộm cắp hôm trước đang cất giấu trong người. Tại Cơ quan Công an, Nguyễn Công M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận định giá tài sản số 197/KL-ĐG ngày 08/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng xác định: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10+ trị giá 22.990.000 đồng. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ tài sản và trả lại cho Cửa hàng F shop do chị Nguyễn Thị Thùy T, là Quản lý cửa hàng nhận, chị Trang không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Tại Cáo trạng số 125/CT-VKS ngày 29/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố bị cáo Nguyễn Công M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Công M khai nhận vào tối ngày 03/5/2019, bị cáo đã có hành vi lợi dụng sự mất cảnh giác của các nhân viên Cửa hàng FPT Đà Lạt, để tài sản trong quầy trưng bày, giới thiệu sản phẩm nhưng không có người trông coi thường xuyên, bị cáo đã lợi dụng việc xem hàng để lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10+ trị giá 22.990.000 đồng với các hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Công M đã khai nhận có thực hiện hành vi phạm tội Trộm cắp tài sản, lời khai tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và phù hợp với lời khai của Đại diện Nguyên đơn dân sự, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo thực hiện việc lén lút chiếm đoạt tài sản trị giá 22.990.000 đồng, có đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1 điều 51 và điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Công M từ 24 đến 30 tháng tù. Phần bồi thường: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ tài sản và trả lại cho Nguyên đơn dân sự. Hiện nay người đại diện của Nguyên đơn dân sự không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không xem xét để giải quyết. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và giải quyết theo qui định của pháp luật.

Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và đại diện Nguyên đơn dân sự không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Công M: Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc lợi dụng sự mất cảnh giác của các nhân viên Cửa hàng F Đà Lạt trong việc quản lý tài sản của mình, đã lén lút để chiếm đoạt tài sản là 01 điện thoại di động của Cửa hàng, trị giá tài sản là 22.990.000 đồng với mục đích để bán lấy tiền sử dụng cho nhu cầu cá nhân là hành vi trái pháp luật, xâm hại trái pháp luật đến quyền sở hữu tài sản của người khác, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là người chủ động và trực tiếp thực hiện việc trộm cắp tài sản vì mục đích tư lợi, là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Công M đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm đối với bị cáo được qui định tại điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo không vi phạm vào tình tiết định khung tăng nặng nào theo qui định tại điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, vì vậy bị cáo chỉ bị xét xử theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo vừa chấp hành xong bản án của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí M, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội Trộm cắp tài sản, thuộc trường hợp tái phạm, vì vậy bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt theo qui định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét bị cáo là người không có việc làm và không có nơi cư trú ổn định, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có điều kiện giáo dục và cải tạo đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ tài sản và trả lại cho Nguyên đơn dân sự. Hiện nay đại diện Nguyên đơn dân sự không có yêu cầu bồi thường gì thêm, vì vậy không tiếp tục xem xét để giải quyết phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo và người bị hại trong bản án này.

Về xử lý vật chứng: Các vật chứng thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm:

+ Một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10+, Cơ quan điều tra đã có Quyết định xử lý bằng hình thức trả lại cho đại diện Nguyên đơn dân sự nên không đề cập để xử lý tiếp.

+ Một điện thoại di động hiệu PAI, màu đen (đã qua sử dụng); 01 kính đeo mắt màu đen; 01 ví da màu đen; 01 Thẻ Vingroup; 01 tai nghe màu xanh; 01 dây thắt lưng màu nâu và 789.000 đồng tiền mặt, xét các vật chứng này là giấy tờ và tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] . Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2] . Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1điều 51 và điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo: Nguyễn Công M 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/5/2019.

[3] . Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Trả lại cho bị cáo: 01 Thẻ Vingroup số 888820087819783; 01 điện thoại di động hiệu PAI, vỏ màu đen, mặt sau dán băng keo; 01 ví giả da màu đen, có in chữ BALLY; 01 kính đeo mắt màu đen, trên gọng có chữ LACOSTE; 01 tai nghe màu xanh, số Model R552N; 01 thắt lưng màu nâu, trên mặt thắt lưng có biểu tượng cá sấu (các tài sản trên đã qua sử dụng) và 789.000 (Bảy trăm tám mươi chín ngàn) đồng tiền mặt.

(Các vật chứng có đặc điểm cụ thể như mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phó Đà Lạt và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt ngày 30/8/2019. Biên lai thu tiền số 0001290 ngày 03/9/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

[4] . Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về lệ phí, án phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] . Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Đại diện nguyên đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 126/2019/HSST ngày 17/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:126/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;