Bản án 126/2019/HS-ST ngày 04/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 126/2019/HS-ST NGÀY 04/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 126/2019/TLST-HS ngày 09/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/2019/QĐXXST-HS ngày 24/10/2019 đối với bị cáo:

Đỗ Hùng C (tên gọi khác: Không), sinh ngày 21/11/1981 tại thành phố S, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Tổ 2, phường C, thành phố S, tỉnh Sơn La. Trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giơi tinh: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông: Đỗ Mạnh Q (đã chết) và bà Khúc Thị B; bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 12/6/2009 bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Đã được xóa án tích) Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 15/7/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 20 phút, ngày 15/7/2019, tại khu vực tổ 6, Phường T, thành phố S, Đỗ Hùng C bị công an thành phố S phát hiện, bắt quả tang khi đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy trên người. Vật chứng thu giữ là: 01 gói giấy bạc bên trong có 02 viên nén đồng dạng hình tròn màu hồng, C khai nhận là hồng phiến cất dấu để sử dụng.

Ngày 16/7/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố S đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng, kết quả cân tịnh xác định: 02 viên nén đồng dạng hình tròn, màu hồng trong gói giấy bạc thu giữ quả tang của Đỗ Hùng C có khối lượng 0,21 gam. Lấy 01 viên nén có khối lượng 0,11 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu C1. Còn lại 0,1 viên nén có khối lượng 0,10 gam làm mẫu lưu kho ký hiệu C2.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La ra Quyết định số 1980/QĐ trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy đối với vật chứng thu giữ của Đỗ Hùng C ký hiệu C1.

Kết luận giám định số 1269 ngày 17/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu giám định ký hiệu C1 là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,11 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,21 gam; loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Đỗ Hùng C khai nhận:

Do bản thân có sử dụng ma túy, khoảng 20 giờ 30 phút ngày 15/7/2019, Đỗ Hùng C đi bộ từ nhà ở tổ 2, phường C, thành phố S đến khu vực bản L, phường C, thành phố S tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, C đã gặp và hỏi mua được của một người nam giới không quen biết 02 viên hồng phiến để trong 01 gói giấy bạc với số tiền 100.000 (Một trăm nghìn đồng). Sau đó, C cầm gói ma túy vừa mua được trong lòng bàn tay trái đi tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng tại khu vực tổ 6, Phường T, thành phố S, tỉnh Sơn La.

Về nguồn gốc 0,21 gam Methamphetamine, bị cáo Đỗ Hùng C khai mua của một người nam giới không quen biết vào ngày 15/7/2019 tại khu vực bản Lầu, phường C, thành phố S, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo, không còn chứng cứ nào khác để chứng minh. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố S không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án. buộc C phải chịu trách nhiệm toàn bộ về số ma túy thu giữ trong vụ án.

Tại cáo trạng số 123/CT-VKSTP ngày 09/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S truy tố Đỗ Hùng C về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố S giữ quan điểm truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Đỗ Hùng C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đỗ Hùng C từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan điều tra, nhất trí với cáo trạng truy tố và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về quá trình tiến hành tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 21 giờ 20 phút ngày 15/7/2019 tại tổ 6 Phường T, thành phố S, tỉnh Sơn La đối với Đỗ Hùng C cùng vật chứng bị thu giữ là 0,21 gam Methamphetamine; Kết luận giám định số 1269 ngày 17/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu giám định ký hiệu C1 là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,11 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,21 gam; loại Methamphetamine.

- Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp kết quả điều tra và vật chứng bị thu giữ.

- Lời khai của người chứng kiên.

Có đủ căn cứ khẳng định: Bị cáo Đỗ Hùng C đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 0,21 gam Methamphetamine để sử dụng, đã vi phạm điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố S truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, nên cần có hình phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình nên được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có bố là ông Đỗ Mạnh Q là thương binh và được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến nên cần áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự khi lượng hình đối với bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản và thu nhập không ổn định, xét không áp dụng hình phạt bổ sung.

[4] Đối với 0,10 gam Methamphetamine còn lại sau khi trừ mẫu giám định là loại hàng nhà nước cấm, cần tịch thu tiêu hủy cùng 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy bạc không còn giá trị sử dụng.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Đỗ Hùng C phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Xử phạt bị cáo Đỗ Hùng C: 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 15/7/2019).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Đỗ Hùng C.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì viền xanh đỏ đã niêm phong. Mặt trước ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Đỗ Hùng C, sinh năm: 1981. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 15/7/2019. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy bạc; Mẫu lưu kho có khối lượng 0,1 gam ký hiệu C2”. Mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có 06 chữ ký, 06 dòng ghi họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an thành phố S.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/10/2019 giữa Công an thành phố S và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Đỗ Hùng C phải chiu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

347
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 126/2019/HS-ST ngày 04/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:126/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;