Bản án 126/2019/HNGĐ-ST ngày 18/10/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 126/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 549/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2019 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 141/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị K, sinh năm 1971; thường trú: Số 74/14, khu phố H, phường H, thị xã A, tỉnh D. Có đơn xin giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đắc T, sinh năm 1971; thường trú: Số 74/14, khu phố H, phường H, thị xã A, tỉnh D. Vắng mặt.

Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1994; địa chỉ: Số 18, đường số 13, khu phố 1, phường T, quận Đ, Thành phố M. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 04/6/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị K và anh Nguyễn Đắc T có thời gian tìm hiểu khoảng 01 năm thì tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh B theo Giấy chứng nhận kết hôn số 07, quyển số 01 ngày 28/01/1993.

Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại B được khoảng 01 năm thì chuyển vào thị xã A sinh sống tại số nhà: 74/14, khu phố H, phường H, thị xã A, tỉnh D cho đến nay. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T chơi cờ bạc, đánh đề không chăm lo cho vợ con, chị K khuyên bảo thì bị anh T nhiều lần đánh đập. Gần đây chị K và các con còn phát hiện anh T có quan hệ bất chính với nhiều người phụ nữ khác, thường xuyên đi qua đêm không về, chị và con đã khuyên nhủ mong muốn anh T vì vợ con mà thay đổi nhưng anh T không muốn hàn gắn, từ bỏ thói quen tật xấu. Hiện nay, vợ chồng còn sống chung nhà nhưng đã ly thân về mặt tình cảm và không còn quan tâm chăm sóc nhau. Chị K xác định tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thị L, sinh ngày 01/6/1994 và Nguyễn Đắc Toán T, sinh ngày 25/3/2000, các con chung đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn anh Nguyễn Đắc T: Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu bị đơn có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 06/8/2019 nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, do vậy vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu bị đơn tham gia phiên tòa vào các ngày 27/9/2019 và 18/10/2019 nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được xem xét trên cơ sở chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 28/6/2019, người làm chứng chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị L là con gái của anh T và chị K. Quá trình sống chung với anh T và chị K thì chị L thấy bố mẹ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn một phần là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp nhưng phần lớn là mâu thuẫn về chuyện tiền bạc và tình cảm. Anh T làm công trình nên đi nhiều và có quan hệ bất chính với nhiều người phụ nữ. Gần 10 năm nay bỏ bê gia đình không phụ chị K nuôi các con. Nhiều lần xảy ra mâu thuẫn anh T đánh đập chị K bầm tím nhiều bộ phận trên cơ thể. Mấy anh em trong gia đình có khuyên nhủ nhưng anh T lớn tiếng chửi bới nên các con không dám có ý kiến nữa. Hiện nay tuy bố mẹ còn sống chung nhà nhưng đã ly thân về mặt tình cảm, không còn quan tâm chăm sóc nhau, mạnh ai nấy sống. Cuộc sống của mẹ thực sự rất ngột ngạt, vì các con mà chịu đựng mấy chục năm nay, chị L đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho bố mẹ được ly hôn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Quá trình tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã chấp hành và tuân theo pháp luật đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do nên Tòa án căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định.

Về nội dung vụ án, đề nghị Tòa án xem xét chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào ngày 27/9/2019 và 18/10/2019 nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung: Anh Nguyễn Đắc T và chị Phạm Thị K đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 07, quyển số 01 ngày 28/01/1993 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh B nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Chị K xác định sau thời gian đầu chung sống hạnh phúc thì đến năm 2014 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T chơi cờ bạc, có quan hệ bất chính với nhiều người phụ nữ khác không chăm lo, quan tâm, chăm sóc vợ con. Chị K và các con đã nhiều lần khuyên bảo mong muốn anh T vì vợ con mà thay đổi nhưng anh T không chịu thay đổi. Hiện nay, vợ chồng tuy còn sống chung nhà nhưng đã ly thân về mặt tình cảm và không còn quan tâm, chăm sóc nhau, mạnh ai nấy sống. Tòa án đã xác minh tình trạng hôn nhân tại Hội liên hiệp phụ nữ phường H nhưng Hội liên hiệp phụ nữ không biết nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng. Quá trình tố tụng, Tòa án đã triệu tập anh T đến Tòa án để hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh T không đến, đồng thời chị K có đơn từ chối hòa giải. Căn cứ vào lời khai của người làm chứng có cơ sở xác định trong cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, tình trạng hôn nhân đã trầm trọng và cả hai đều không muốn hàn gắn. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị K là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thị L, sinh ngày 01/6/1994 và Nguyễn Đắc Toán T, sinh ngày 25/3/2000, các con đã trưởng thành nên Tòa án không giải quyết.

[4] Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với quan điểm của Tòa án nên chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị K phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phạm Thị K về việc tranh chấp ly hôn đối với bị đơn anh Nguyễn Đắc T.

2. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị K được ly hôn với anh Nguyễn Đắc T (Theo giấy chứng nhận kết hôn số số 07, quyển số 01 ngày 28/01/1993 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh B cấp).

3. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thị L, sinh ngày 01/6/1994 và Nguyễn Đắc Toán T, sinh ngày 25/3/2000, con chung đã trưởng thành nên Tòa án không giải quyết.

4. Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị K phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0028722 ngày 13/6/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 126/2019/HNGĐ-ST ngày 18/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:126/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;