TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 126/2017/HSST NGÀY 22/09/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 22 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở ủy ban nhân dân xã Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 107/2017/HSST ngày 17 tháng 8 năm 2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2017/HSST-QĐ ngày 11 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo:
Đặng Quốc T (tên gọi khác TM), sinh năm 1985, tại Bình Dương; nơi đăng ký NKTT: Ấp 3, xã HN, thị xã AB, tỉnh Bình Dương; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 5/12; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 13/3/2008, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 06 năm 06 tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích” tại bản án số 07/2008/HSST, đã chấp hành xong bản án. Ngày 08/4/2013, bị cáo bị Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành hành quyết định số 891/QĐ – UBND, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 24 tháng về hành vi gây rối trật tự công cộng; con ông Đặng Quốc B, sinh năm1959 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1958; bị cáo chưa có vợ con; bị bắt tạm giam từ ngày 14/02/2017 cho đến nay; bị cáo có mặt.
Người bị hại:
- Ông Thái Văn Q, sinh năm 1992; địa chỉ: Nhà trọ Anh Minh - Ấp 2, xã HN, thị xã AB, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Ông Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1993; địa chỉ: Tổ 5, ấp CV, xã GD, huyện PQ, tỉnh KG; vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Võ Văn Th, sinh năm 1986; địa chỉ: Ấp 5, xã HN, thị xã AB, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
- Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1958; địa chỉ: Ấp 3, xã HN, thị xã AB, tỉnh Bình Dương; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ông Nguyễn Văn Tr và ông Trần Thanh Y là bạn bè quen biết nhau và cùng tạm trú tại ấp 4, xã HN, thị xã AB, tỉnh Bình Dương.
Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 13/02/2017 ông Y và ông Tr đến nhà bạn của ông Y là Đặng Quốc T để trả một xe mô tô kéo rơ móc tự chế cho T do ông Y đã mượn trước đó. Đến nơi, ông Tr nhìn thấy tại sân nhà của T có một con chó có đặc điểm giống con chó của ông Tr nuôi đã bị thất lạc khoảng một tháng nên ông Tr cho rằng đây là con chó của mình nên xin T cho nhận lại nuôi nhưng T không đồng ý. Lúc này, ông Tr vẫn đang ôm con chó và xin T cho nhận lại nuôi thì T liền nói “Mày có bỏ chó xuống không?”. Nghe vậy, ông Tr sợ nên khom người đặt con chó xuống đất, ông Tr chưa kịp đứng thẳng người lên thì T liền nhặt một đoạn gỗ dài khoảng 85 cm, đường kính 3,5 cm có sẵn trên xe mô tô kéo rơ móc tự chế, sau đó T đứng bên hông trái của ông Tr, cách ông Tr khoảng 01 mét, cầm đoạn gỗ bằng hai tay đưa lên cao ngang đầu của T rồi đánh liên tục hai cái trúng vào vùng phía sau đầu của ông Tr gây thương tích, do đoạn gỗ bị gãy nên T ném tại hiện trường rồi dùng chân phải đạp một cái trúng vào vùng hông bên trái của ông Tr làm ông Tr mất thăng bằng té ngã úp mặt xuống nền đất. Ông Tr xoay người nằm ngửa lại thì T tiếp tục nhặt một cây xà beng, bằng kim loại, có một đầu nhọn và một đầu dẹp, dài 1,1 mét, đường kính 2,5 cm có sẵn trên xe mô tô kéo rơ móc tự chế, Trung cầm bằng hai tay đi lại đứng bên hông trái ông Tr, cách ông Tr khoảng 01 mét, đưa cây xà beng lên qua khỏi đầu của T rồi đánh một cái trúng vào vùng ngực của ông Tr gây thương tích. Ông Nguyễn Mậu H ở cạnh nhà T và ông Y đến can ngăn, ông H dùng tay giật cây xà beng T đang cầm, còn ông Y thì ôm T lại ngăn không cho T tiếp tục đánh ông Tr. Sau đó, ông Y đưa ông Tr đi cấp cứu tại Phòng khám đa khoa TP thuộc xã HN.
Do còn bực tức ông Tr nên T đi vào nhà lấy một con dao, bằng kim loại, cán gỗ, phần cán dao dài 10 cm, lưỡi dao dài 20 cm có bản rộng 07 cm để trên baga xe mô tô biển số 61U1 – 8404, sau đó điều khiển xe mô tô này đến phòng khám TP tìm ông Tr để tiếp tục đánh ông Tr. Đến nơi, T nhìn thấy ông Tr đã được bác sĩ băng bó vết thương, đồng thời ông Y gặp và khuyên can T đi về nên T điều khiển xe mô tô 61U1 – 8404 đi về nhà.
Khi T điều khiển xe mô tô 61U1 – 8404 đến đoạn đường thuộc ấp 4, xã HN thì gặp ông Thái Văn Q đang điều khiển xe mô tô lưu thông cùng chiều với T, khi xe ông Q chạy song song với xe T thì ông Q quay mặt nhìn về phía T nên T liền điều khiển xe đuổi theo ông Q. Khi T đuổi kịp và chạy song song với xe ông Q, T nói “Ê mày thích đánh lộn không tao với mày đánh”, ông Q không trả lời và tiếp tục điều khiển xe được khoảng 50 mét thì dừng xe vào lề đường để gọi điện thoại cho người thân. Lúc này, T đuổi theo kịp xe ông Q và dừng xe song song bên hông trái xe của ông Q, cách xe của ông Q khoảng 01 mét, T bước xuống xe và lấy con dao mang theo, T cầm bằng hai tay, đưa dao lên cao ngang tầm đầu của T và chém từ trên xuống vào người ông Q, ông Q đang ngồi trên xe gọi điện thoại thấy vậy liền xoay người sang trái tránh và đưa tay phải lên đỡ thì bị T chém trúng một cái gây thương tích vùng khuỷu tay phải, T tiếp tục chém ông Q thì ông Q đưa tay trái lên đỡ thì bị trúng một nhát gây thương tích ở bàn tay trái. Khi đó, ông Q bị mất thăng bằng nên bị ngã xuống đường, ông Q liền đứng dậy bỏ chạy nên T không tiếp tục chém ông Q được. Sau đó T điều khiển xe chạy về nhà, còn ông Q đi nhờ người thân chở đi bệnh viện cấp cứu.
Cùng ngày, ông Tr và ông Q nộp đơn đến Công an xã HN yêu cầu xử lý hành vi của Đặng Quốc T về việc gây thương tích đối với ông Tr và ông Q. Công an xã HN đến hiện trường và lập biên bản thu giữ vật chứng gồm: 01 (một) đoạn gỗ dài 85 cm, đường kính 3,5cm; 01 (một) cây xà beng, bằng kim loại, có một đầu nhọn và một đầu dẹp, dài 1,1m, đường kính 2,5cm; 01 (một) con dao, bằng kim loại, cán gỗ, phần cán dao dài 10 cm, lưỡi dao dài 20cm có bản rộng 07cm; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Max (YMH), màu tím, biển số61U1 – 8404, số khung 026844, số máy 044844; 01 (một) mũ bảo hộ bằng nhựacó màu vàng, mặt trước mũ có dòng chữ Genuine, mặt sau bị bể có nhiều vết màu đỏ thẩm (nghi là máu); 01 (một) nón kết có màu xanh đen.
Công an xã HN chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã TU xử lý theo thẩm quyền.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 43/2017/GĐPY ngày 28/02/2017 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh Bình Dương, kết luận thương tật của ông Thái Văn Q như sau: “Vết thương khuỷu phải 4 x 0,3 cm, sẹo lành; vết thương đứt gần lìa dọc ngón III bàn tay trái 6 x 0,3 cm, đã mổ cắt lọc khâuvết thương, sẹo lành. Gãy nhiều mảnh đốt xa ngón III, còn hạn chế vận động các khớp liên đốt ngón III tay trái; gãy ngón IV bàn tay trái, đã cal”. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 15%.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 40/2017/GĐPY ngày 21/02/2017 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh Bình Dương, kết luận thương
tật của ông Nguyễn Văn Tr như sau: “Vết thương chẩm trái 1,5 x 0,3cm, sẹolành; sưng bầm hốc mắt phải, đau ngực đã lành”. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 2%.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định pháp y của Trung tâm giám định pháp y nêu trên.
Về phần dân sự: Ông Thái Văn Q yêu cầu Đặng Quốc T bồi thường số tiền 110.513.160 đồng bao gồm chi phí điều trị thương tích, thu nhập thực tế bị mất trong thời gian điều trị thương tích, tổn thất tinh thần, bị cáo T chưa bồi thường.
Ông Nguyễn Văn Tr không yêu cầu bị cáo T bồi thường về phần dân sự. Xe mô tô nhãn hiệu Max (YMH), màu tím, biển số 61U1 – 8404, sốkhung 026844, số máy 044844 do ông Nguyễn Phước T đứng tên trong giấyđăng ký xe. Tháng 01/2017, ông T bán xe này cho ông Võ Văn Th nhưng không làm thủ tục sang tên. Ông Th và T là bạn bè quen biết nên ngày 13/02/2017 ôngTh cho Tr mượn làm phương tiện đi lại, ông Th không biết T sử dụng xe này đigây thương tích ông Tr và ông Q.
Bản cáo trạng số 109/QĐ-KSĐT ngày 15/8/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Đặng Quốc T về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 2 Điều 104 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh như Cáo trạng và xác định bị cáo có nhân thân xấu. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo sau phạm tội bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Quốc T mức hình phạt từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người bị hại ông Q yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 35.513.160 đồng bao gồm chi phí điều trị thương tích và tiền mất thu nhập trong thời gian điều trị thương tích. Bị cáo đồng ý bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:
- Tịch thu, tiêu huỷ 01 đoạn gỗ hình trụ tròn dài 85cm, đường kính 3,5cm;01 cây xà beng bằng kim loại, dài 110cm, một đầu nhọn, một đầu dẹp, trên thanh sắt có nhiều sọc ngang đều nhau; 01 con dao bằng kim loại, cán gỗ, cán dao dài khoảng 10cm, lưỡi dao dài khoảng 20cm, bề rộng lưỡi dao khoảng07cm.
- Trả lại cho ông Võ Trung Th 01 xe mô tô nhãn hiệu Max (YMH), màu tím, biển số 61U1 – 8404, số khung 026844, số máy 044844.
- Trả lại cho Nguyễn Văn Tr 01 mũ bảo hộ bằng nhựa có màu vàng, mặt trước mũ có dòng chữ Genuine; 01 nón kết có màu xanh đen.
Tại phiên tòa, bị cáo T đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Về phần trách nhiệm dân sự, bị cáo đồng ý bồi thường cho người bị hại ông Thái Văn Q số tiền 35.513.160 đồng.
Người bị hại ông Thái Văn Q yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền35.513.160 đồng, bao gồm chi phí điều trị thương tích là 5.513.160 đồng và tiền thu nhập thực tế bị mất trong thời gian 03 tháng điều trị thương tích là30.000.000 đồng. Về trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N trình bày: Con dao bằng kim loại, cán gỗ, cán dao dài khoảng 10 cm, lưỡi dao dài khoảng 20 cm, bề rộng lưỡi dao khoảng 07 cm là của bà N, bị cáo sử dụng gây thương tích cho người bị hại, bà N không biết. Bà N không có yêu cầu nhận lại con dao này.
Bị cáo nói lời sau cùng bị cáo đã biết lỗi, bị cáo đã sai đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt phù hợp cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo Đặng Quốc T tại phiên toà thống nhất với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, trước sau thống nhất với nhau và phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội cũng như thương tích thực tế của người bị hại. Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Ngày 13/02/2017, bị cáo Đặng Quốc T đã có hành vi dùng cây gỗ, cây xà beng bằng kim loại, dao bằng kim loại đánh và chém gây thương tích cho ông Thái Văn Q với tỷ lệ thương tật là 15%, ông Nguyễn Văn Tr với tỷ lệ thương tật là 2%. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung là “dùng hung khí nguy hiểm”, “phạm tội đối với nhiều người” và “có tính chất côn đồ” được quy định tại Điểm a, c, i Khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự nên đã đủ yếu yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích, tội phạm và hình phạt quy định tại Khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố đối với bị cáo Đặng Quốc Tvề tội cố ý gây thương tích là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị, hiểu rõ khi dùng dao bằng kim loại, cây gỗ, cây xà beng bằng kim loại đánh và chém vào những vị trí trên cơ thể của người bị hại thì khả năng gây tổn hại sức khỏe cho người bị hại là rất cao. Bị cáo và người bị hại ông Trường, ông Qui không có mâu thuẫn gì nhưng bị cáo lại gây thương tích cho ông Trường, ông Qui thể hiện tính xem thường pháp luật. Bị cáo từng bị kết án về tội cố ý gây thương tích, cho thấy hình phạt của bản án trước đây chưa đủ răn đe, giáo dục bị cáo. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo từng bị kết án về tội cố ý gây thương tích, tuy đã được xóa án tích nhưng bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi cố ý gây thương tích. Ngày 08/4/2013, bị cáo bị Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành hành quyết định số 891/QĐ – UBND đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 24 tháng về hành vi gây rối trật tự công cộng nên khi quyết định hình phạt cũng cần cân nhắc đối với nhân thân của bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều46 Bộ luật Hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
[4] Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo thực hiện hành phạm tội gây thương tích cho người bị hại nên bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại theo quy định tại Điều 584 và 590 Bộ luật dân sự năm 2015. Bị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại cho người bị hại ông Thái Văn Q số tiền 35.513.160 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[6] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 (một) đoạn gỗ hình trụ tròn dài 85 cm, đường kính 3,5 cm; 01 (một) cây xà beng bằng kim loại, dài 110 cm, một đầu nhọn, một đầu dẹp, trên thanh sắt có nhiều sọc ngang đều nhau; 01 (một) con dao bằng kim loại, cán gỗ, cán dao dài khoảng 10 cm, lưỡi dao dài khoảng 20 cm, bề rộng lưỡi dao khoảng07cm là vật chứng thu giữ không còn giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy.
Xe mô tô nhãn hiệu Max (YMH), màu tím, biển số 61U1 – 8404, sốkhung 026844, số máy 044844, là xe của ông Võ Trung Th, ông Th cho bị cáomượn xe, không biết bị cáo dùng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên giao trả lại cho ông Th.
Một mũ bảo hộ bằng nhựa có màu vàng, mặt trước mũ có dòng chữ Genuine; 01 nón kết có màu xanh đen là tài sản của ông Nguyễn Văn Tr nên giao trả lại cho ông Trường.
[7] Về án phí: Bị cáo phạm tội và bị kết án, bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Đặng Quốc T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự,
Xử phạt bị cáo Đặng Quốc T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/02/2017.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015. Buộc bị cáo Đặng Quốc T bồi thường cho ông Thái Văn Q số tiền 35.513.160 (ba mươi lăm triệu năm trăm mười ba nghìn một trăm sáu mươi nghìn đồng) bao gồm chi phí điều trị thương tích và tiền thu nhập thực tế bị mất trong thời gian điều trị thương tích.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyệnthi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tạiĐiều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ luậtTố tụng hình sự, tuyên:
Tịch thu, tiêu huỷ 01 (một) đoạn gỗ hình trụ tròn dài 85 cm, đường kính 3,5cm; 01 (một) cây xà beng bằng kim loại, dài 110cm, một đầu nhọn, một đầu dẹp, trên thanh sắt có nhiều sọc ngang đều nhau; 01 (một) con dao bằng kimloại, cán gỗ, cán dao dài khoảng 10 cm, lưỡi dao dài khoảng 20cm, bề rộng lưỡidao khoảng 07cm.
Trả lại cho ông Võ Trung Th 01 xe mô tô nhãn hiệu Max (YMH), màu tím, biển số 61U1 – 8404, số khung 026844, số máy 044844.
Trả lại cho ông Nguyễn Văn Tr 01 (một) mũ bảo hộ bằng nhựa có màu vàng, mặt trước mũ có dòng chữ Genuine; 01 (một) nón kết có màu xanh đen.
(Thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18/8/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).
2. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Đặng Quốc T phải chịu 200.000 đồng(hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.775.657 (một triệu bảy trămbảy mươi lăm nghìn sáu trăm năm mươi bảy) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 126/2017/HSST ngày 22/09/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 126/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về