Bản án 125/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH T

BẢN ÁN 125/2020/HS-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 7 năm 2020 tại hội trường xét xử 1, trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế (60 đường Nguyễn Huệ) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 95 /2020/TLST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Quốc C (tên gọi khác: Kem), sinh ngày 13 tháng 6 năm 1994 tại tỉnh T. Nơi cư trú: Số 38/71 Nhật Lệ, phường T, thành phố H, tỉnh T; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc A (Sinh năm 1963) và bà Trần Thị H (Sinh năm 1965); Vợ, con: Chưa có; tiền án: Có 03 tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: Lúc nhỏ ở với bố mẹ tại thành phố Huế, học văn hóa đến lớp 7/12 thì nghỉ học;

-Ngày 23/4/2013, bị Công an thành phố H xử phạt cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản”;

-Ngày 25/3/2014, bị Tòa án nhân dân tỉnh T xử phạt 09 tháng tù về tội về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 41/HSPT;

- Ngày 15/12/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 169/HSST;

-Ngày 29/11/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 254/HSST). Ngày 19/6/2018 chấp hành xong án phạt tù.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01/4/2020 cho đến nay - Bị cáo có mặt.

- Bị hại: Chị Lê Thị Kiều G, sinh năm 2001; nơi ĐKNKTT: Khu phố 3, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q; nơi cư trú: Số 10/01/23 Nhật L, phường T, thành phố H, tỉnh T - vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Trịnh Ngọc D, sinh năm 1995. Trú tại: 31/4 Nguyễn Gia T, phường P, thành phố H, tỉnh T - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 04 giờ 30 phút ngày 06/11/2019, Trần Quốc C sau khi nhậu tại nhà bạn ở đường Hòa B, phường T, thành phố H thì đi bộ về nhà. Khi đi ngang qua khu nhà trọ ở số 10/01/23 Nhật Lệ, phường T, thành phố H, C thấy khu nhà trọ không khóa cổng nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. C đi thẳng vào khu nhà trọ, phát hiện 01 (một) xe đạp điện hiệu Yamaha màu đen của chị Lê Thị Kiều G(sinh năm 2001; ĐKHKTT: Khu phố 3, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q) để ở ngoài sân không khóa cổ nên C dắt xe đi ra cổng rồi lên xe chạy đến gửi tại nhà xe của Bệnh viện T rồi đi về nhà. Khoảng 13 giờ cùng ngày, Chí điện thoại cho Hoàng Chí Th (sinh năm: 1984; trú tại: 28 Trần Quý Cáp, phường T, thành phố H) hỏi có chỗ nào để gửi xe không nhưng Th bận việc nên nói C liên lạc cho Trịnh Ngọc D(sinh năm: 1995; trú tại: 31/4 Nguyễn Gia Thiều, phường P, thành phố H) để nhờ gửi xe. Chí gọi điện cho D gặp nhau ở gầm cầu C, sau đó C giao xe đạp điện cho D đem về nhà cất giữ.

Chị G phát hiện bị mất xe đạp điện nên trình báo Công an giải quyết theo pháp luật.

* Vật chứng thu giữ: 01 (một) xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha có 02 (hai) vành đúc, màu sơn đen, xe đã qua sử dụng.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 299 ngày 12/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố H kết luận: 01 (một) xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha có 02 (hai) vành đúc, màu sơn: Đen, đã qua sử dụng vào thời điểm ngày 06/11/2019, có giá trị: 2.500.000 đồng.

* Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế ra Quyết định trả xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha cho chị Lê Thị Kiều G là chủ sở hữu, chị Giang nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 111/CT-VKS-HS ngày 22/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh T truy tố Trần Quốc C về tội “ Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điều 54 của Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì, nên không đề nghị HĐXX xem xét.

Về án Phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế; bị cáo nói lời nói sau cùng là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Huế, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo , bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Quốc C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời khai của bị cáo phù với lời khai của bị hại tại cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để khẳng định: Vào khoảng 04 giờ 30 ngày 06/11/2019, tại nhà trọ số 10/01/23 Nhật Lệ, phường T, thành phố H, tỉnh T, Trần Quốc C đã trộm cắp của chị Lê Thị Kiều G 01 (một) xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha có giá trị:

2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 111/CT-VKS-HS ngày 22/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh T đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường và bất chấp pháp luật, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an ninh xã hội tại địa phương. Do vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử tại phiên tòa hôm nay để áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời cũng để răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bản thân bị cáo có nhân thân rất xấu, đã nhiều lần vi phạm pháp luật, hiện bị cáo còn 03 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích; nhưng bị cáo không rút kinh nghiệm cho bản thân, không lo làm ăn để kiếm tiền nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình, mà lười lao động, muốn kiếm tiền trên thành quả lao động của người khác, nên đã tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản. Nên cần thiết phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, thành khẩn khai báo quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo nhân thân quá xấu, hiện có 03 tiền án chưa được xóa án tích. Nên không chấp nhận đề nghị trên của đại diện Viện kiểm sát mà cần phải xử phạt nghiêm để nghiêm túc giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì, nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Trần Quốc C (Tên gọi khác: K) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Quốc C (Tên gọi khác: K) 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ là ngày 01/4/2020.

2.Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo Trần Quốc C (Tên gọi khác: K) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3.Về quyền kháng cáo: Bị cáo mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 125/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:125/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;