Bản án 125/2020/HSST ngày 10/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 125/2020/HSST NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại: Trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 137/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 145/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

HUỲNH NGUYỄN NGỌC D (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1994, tại Gia Lai; nơi cư trú: Tổ 05, Phường I, thành phố P, tỉnh G; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Huỳnh Ngọc D, Sinh năm 1969 và bà: Nguyễn Thị H, Sinh năm 1968. Bị cáo có 02 người anh ruột (sinh năm 1990 và sinh năm 1991). Bị cáo có chồng là anh: Bùi Thanh N, Sinh năm 1996 và có 01 người con, Sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 06 tháng 5 năm 2020 cho đến nay (do bị cáo đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi). Có mặt.

- Người chứng kiến:

Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1978; địa chỉ: Tổ 02, phường Y, thành phố P, tỉnh G. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

 Huỳnh Nguyễn Ngọc D là người có sử dụng ma túy (loại MDMA). Thông qua các mối quan hệ ngoài xã hội, D biết được một người đàn ông tên V (không rõ nhân thân, lai lịch) có bán ma túy và thường đứng ở trước số nhà 90 đường Quyết Tiến, tổ 05, Phường I, thành phố P. Vào khoảng 11 giờ ngày 23-4-2020, D nảy sinh việc mua ma túy về để sử dụng nên D đi bộ từ nhà (ở số 82 đường Quyết Tiến, tổ 05, Phường I, thành phố P) đến trước số nhà 90 đường Q thì gặp V. Tại đây, D đã mua của Vương 05 viên ma túy (loại MDMA) với giá 1.750.00 đồng và 01 bì nilon bên trong có chứa mảnh vụn thực vật khô với giá 250.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, D cầm trên tay và đón xe thồ của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) chở đến trước số nhà 102 đường Cao Bá Quát, phường Yên Đỗ, thành phố Pleiku để gặp một người bạn gái tên Ánh (không rõ nhân thân, lai lịch). Lúc này khoảng 12 giờ 45 phút cùng ngày, khi D đang đứng chờ bạn thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố P phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật, thu giữ trên tay D đang cầm gồm: 01 hộp giấy bên trong chứa 01 gói giấy có chứa 05 viên nén màu xanh (được niêm phong theo quy định và đánh số I) và 01 bì nilon bên trong chứa mảnh vụn thực vật khô trong một hộp bằng giấy thu giữ của D (được niêm phong bằng cách quấn bằng giấy trắng dán kín). Ngoài ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra còn thu giữ của Huỳnh Nguyễn Ngọc D 01 điện thoại di động màu xanh đen cùng sim số có dãy số 8984 04800 00065 17324.

Bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

2. Các vấn đề khác:

Qua trưng cầu giám định, tại Kết luận giám định số:378/KLGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “05 viên nén màu xanh trong 01 gói giấy, trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 1,7386gam”.

Qua trưng cầu giám định, tại Kết luận giám định số: 499/KLGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, kết luận: “Mẫu thực vật khô (đã cắt nhỏ) đựng trong túi ni lông màu hồng, niêm phong trong hộp giấy gửi giám định không có chất ma túy, khối lượng 89,30 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số: 137/CT-VKS ngày 17-8-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình sự:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D với mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì công văn niêm phong ghi số: 378/PC09 ngày 05-5-2020 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai. (có các chữ ký Nguyễn Minh T, Nguyễn Đại H, Trần Minh D) và 01 (một) bì công văn niêm phong ghi số: 499/C09C (Đ4) ngày 25-5-2020 có dấu niêm phong của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng). (có các chữ ký Phạm Thế D, Phạm Thị Thu H).

Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh - đen kèm sim có dãy số 8984 04800 00065 17324.(điện thoại cũ, đã qua sử dụng, Chi cục THADS thành phố không kiểm tra tình trạng bên trong).

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án:

Bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận vì việc làm của mình, kính mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh G; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Xét thấy lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D phạm tội như sau:

Huỳnh Nguyễn Ngọc D là người sử dụng ma túy. Vào khoảng 11 giờ ngày 23-4-2020, tại trước số nhà 90 đường Quyết Tiến Tổ 05, Phường I, thành phố Pleiku D mua của đối tượng tên Vương (không rõ nhân thân, lai lịch) 05 viên thuốc ma túy (loại thuốc lắc) với giá 1.750.000 đồng và 01 bì ma túy dạng cỏ Mỹ với giá 250.000 đồng. Đến khoảng 12 giờ 45 phút cùng ngày, khi D đang đứng chờ bạn tại trước số nhà 102 đường Cao Bá Quát, phường Yên Đỗ, thành phố Pleiku thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố Pleiku phát hiện bắt quả tang cùng tang vật gồm: 01 hộp giấy bên trong chứa 01 gói giấy có chứa 05 viên nén màu xanh và 01 bì nilon bên trong chứa mảnh vụn thực vật khô trong một hộp bằng giấy trắng cùng 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh đen kèm sim số.

Qua giám định xác định: 05 viên nén màu xanh trong 01 gói giấy mà D tàng trữ để sử dụng là ma túy loại MDMA có tổng khối lượng 1,7386gam.

Qua giám định xác định: Mẫu thực vật khô đựng trong túi ni lông màu hồng, mà D tàng trữ để sử dụng không có chất ma túy, có khối lượng 89,30 gam.

Ma tuý là chất độc, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi vào cơ thể con người có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và tâm sinh lý của con người, làm hạn chế hoạt động của não bộ và gây ức chế hệ thần kinh. Sự nghiện ngập là biểu hiện của trạng thái ngộ độc mãn tính do chất ma tuý gây ra, làm tổn thương cho bản thân. Ma tuý gây tác hại về nhiều mặt trong đời sống, xã hội. Sử dụng ma tuý làm suy thoái nhân cách, phẩm giá con người, gây xói mòn đạo lý, kinh tế, xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự tại địa phương.

Bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D là người đã trưởng thành, có trình độ học vấn nhất định, lẽ ra bị cáo phải nhận thức được tác hại và hậu quả của việc sử dụng ma túy. Nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo đã tàng trữ 1,7386gam ma túy loại MDMA với mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, góp phần tiếp tay gieo rắc nạn dịch HIV-AIDS và những tệ nạn xã hội khác. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo cải tạo bản thân tiến bộ là cần thiết.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 khi quyết định hình phạt.

[4] Về vật chứng vụ án:

 Đối với 01 (một) bì công văn niêm phong ghi số: 378/PC09 ngày 05-5-2020 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai. (có các chữ ký Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Đại Hải, Trần Minh Duy) và 01 (một) bì công văn niêm phong ghi số: 499/C09C (Đ4) ngày 25-5-2020 có dấu niêm phong của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng). (có các chữ ký Phạm Thế Dũng, Phạm Thị Thu Hương). Xét đây là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh - đen kèm sim có dãy số 8984 04800 00065 17324.(điện thoại cũ, đã qua sử dụng, Chi cục THADS thành phố không kiểm tra tình trạng bên trong). Xét đây là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Mục đích của bị cáo mua ma túy về để sử dụng, bị cáo không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác:

Đối với 01 bì nilon bên trong chứa mảnh vụn thực vật khô, D khai, khi mua thì Vương nói với D là thuốc lá thơm, bị cáo mua về sử dụng và không biết chất gì. Qua giám định, xác định số thực vật khô này có khối lượng 89,30 gam và không có chất ma túy. Do đó, không có căn cứ để xử lý đối với bị cáo D về số lượng 89,30gam thực vật khô này.

Đối với đối tượng tên Vương (không rõ nhân thân, lai lịch) người mà bị cáo D khai là đã bán ma túy cho D, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại khu vực trước số nhà 90 đường Quyết Tiến, Tổ 05, Phường I, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, nhưng chưa xác định được. Do đó, chưa có căn cứ để điều tra, xử lý. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo: Huỳnh Nguyễn Ngọc D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xử: Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) bì công văn niêm phong ghi số: 378/PC09 ngày 05-5-2020 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai. (có các chữ ký Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Đại Hải, Trần Minh Duy) và 01 (một) bì công văn niêm phong ghi số: 499/C09C (Đ4) ngày 25-5-2020 có dấu niêm phong của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng) (có các chữ ký Phạm Thế Dũng, Phạm Thị Thu Hương).

Trả lại cho bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh - đen kèm sim có dãy số 8984 04800 00065 17324.(điện thoại cũ, đã qua sử dụng, Chi cục THADS thành phố không kiểm tra tình trạng bên trong). (Tất cả theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24-8-2020 giữa Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Pleiku,tỉnh Gia Lai).

4. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Huỳnh Nguyễn Ngọc D phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào các Điều 331 và 333 của Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2015:

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 125/2020/HSST ngày 10/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:125/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;