Bản án 125/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 125/2019/HS-ST NGÀY 18/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 133/2019/HSST ngày 01 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Tuấn V, sinh ngày 31 tháng 7 năm 1990 tại Hà Nội; Đăng ký nhân khẩu thường trú: Phòng 410 E1 phường P, quận Đ, Thành phố Hà Nội; Nơi cư trú: Phòng 407 Tập thể B, ngõ 127 phố Nguyễn Phong S, phường D, quận C, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Anh T và bà Trần Ánh N; vợ, con: Chưa; tiền án: Ngày 31/3/2008 Tòa án nhân dân quận Ba Đình xét xử sơ thẩm phạt bị cáo 06 năm tù về tội "Cướp tài sản"; Ngày 10/6/2008 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phúc thẩm phạt bị cáo 04 năm tù về tội "Cướp tài sản"; Ngày 30.12.2008 Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội "Cướp tài sản". Tổng hợp bản án phúc thẩm của Tòa án thành phố Hà Nội buộc bị cáo phải chấp hành cả hai bản án là 07 năm tù, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/3/2013; Ngày 24/4/2015 Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy xét xử sơ thẩm phạt bị cáo 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản"; Ngày 25/6/2015 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phúc thẩm phạt bị cáo 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" (chấp hành xong hình phạt tù ngày 28.7.2016, ngày 04.4.2019 chấp hành xong hình phạt phụ) chưa được xóa án tích; tiền sự: Không; Danh chỉ bản số: 84 ngày 25/01/2019 của Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; tạm giữ từ ngày 25/01/2019; tạm giam từ ngày 03/02/2019 đến nay tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội (Có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy nên vào khoảng 11h ngày 24/01/2019 Nguyễn Tuấn V đi đến khu vực ngã ba phố Y - L, quận H, Thành phố Hà Nội để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây V gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 (một) túi ma túy “đá” với giá 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng). Sau đó V cầm ở tay phải rồi đi bộ để tìm nơi sử dụng. Khoảng 12h20’ cùng ngày, khi V đến khu vực trước cửa số nhà 11, ngõ 108 phố L, phường Đ, quận H, Thành phố Hà Nội thì bị tổ công tác Công an phường Đ, quận H, Thành phố Hà Nội kiểm tra hành chính phát hiện, thu giữ 01 (một) túi nilon bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, V tự khai là ma túy “đá” mua về để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra cơ quan cảnh sát điều tra còn thu giữ của V 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105. Cơ quan điều tra - Công an quận Hai Bà Trưng đã ra quyết định trưng cầu giám định số ma túy thu giữ của Nguyễn Tuấn V. Tại bản kết luận giám định số 872/PC09 ngày 31/01//2019, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại methamphetamine, khối lượng 0,501gam. Tại cơ quan điều tra Nguyễn Tuấn V khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Cơ quan điều tra dẫn giải V đi xác định nơi mua ma tuý, kết quả V xác định được nơi mua ma túy nhưng không xác định được đối tượng đã bán ma túy cho V. Vì vậy Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Hai Bà Trưng không có căn cứ xác minh xử lý. Đối với chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo, bị cáo khai là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến việc mua ma túy.

Bản cáo trạng số 116/CT -VKS ngày 20/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội đã truy tố Nguyễn Tuấn V về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như nội đã nêu trên là đúng. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn V từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã được niêm phong bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh là tài sản riên của bị cáo không liên quan đến vụ án.

Bị cáo không tranh luận và nói lời sau cùng, nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà bị cáo khai nhận phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án thể hiện: Vào khoảng 12h20' ngày 24/01/2019 tại trước cửa số nhà 11 ngõ 108 phố L, phường Đ, quận H, Thành phố Hà Nội; Nguyễn Tuấn V đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Vật chứng thu giữ là 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng được Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận là Methamphetamine, khối lượng 0,501gam. Bị cáo khai nhận mua ma túy về để sử dụng cho bản thân. Bị cáo phạm tội lần này xác định là tái phạm nguy hiểm. Do đó đủ cơ sở khẳng định bị cáo Nguyễn Tuấn V phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm 0 khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Việc truy tố, xét xử bị cáo là có căn cứ và đúng theo quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội vì chẳng những xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội mà còn là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, là nguyên nhân, điều kiện nảy sinh, phát triển các tệ nạn xã hội khác; ma tuý còn là một tệ nạn xã hội nguy hiểm, vì nó trực tiếp huỷ hoại sức khoẻ làm ảnh hưởng đến nòi giống và là một trong những nguyên nhân cơ bản làm lan truyền lây nhiễm các loại bệnh. Hơn thế nữa ma tuý còn làm tan nát hạnh phúc và sự bình yên của nhiều gia đình. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Song do thiếu tu dưỡng và coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý phạm tội. Bản thân bị cáo có nhiều tiền án thể hiện bị cáo có nhân thân rất xấu. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo khai báo thành khẩn và ăn năn hối cải. Đó là những tình tiết để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp với pháp luật. Tại phiên toà Kiểm sát viên đề nghị áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Cần tịch thu tiêu hủy 01 phong bì chứa 0,501 gram Methamphetamine. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh là tài sản riên của bị cáo không liên quan đến vụ án.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tuấn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ vào điểm 0 khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tuấn V: 05 (năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/01/2019.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Toà án của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bì giấy đã được niêm phong, bên trong chứa 0,501 gram Methamphetamine. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh. (Tình trang vật chứng theo biên bản giao nhận tang vật, vật chứng giữa Công an quận Hai Bà Trưng với Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng ngày 06/5/2019).

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 125/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:125/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;