Bản án 125/2019/HS-ST ngày 11/11/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ  

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 125/2019/HS-ST NGÀY 11/11/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 11 tháng 11 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 119/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Trọng N, tên gọi khác: không có; sinh ngày 26/6/1971, tại U, Quảng Ninh. Nơi cư trú: Tổ 4, khu C, phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc H (đã chết) và bà Vũ Thị L; vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1972, và có 02 con, lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: không; bị cáo đầu thú ngày 25/8/2019, bị tạm giữ từ ngày 25/8/2019 đến ngày 28/8/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng “Cấm đi khỏi nơi cư trú” hiện tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

*Bị hại: Bà Nguyễn Thị T (đã chết).

*Ni đại diện hợp pháp cho bị hại:

Ông Đinh Văn P, sinh năm: 1957 là con trai của bà Nguyễn Thị T.

Đa chỉ: Tổ 3, khu S, phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

*Những người làm chứng: 1. Anh Trần Nhị L, sinh năm: 1998.

Đa chỉ: Tổ 4, khu C, phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Chị Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm: 1988.

Đa chỉ: Tổ 4, khu S, phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ 30 phút, ngày 25/8/2019 Trần Trọng N (có giấy phép lái xe hợp lệ) điều khiển xe ô tô bán tải nhãn hiệu Mazda BT50, biển kiểm soát (BKS) 14C-100.46 đi từ khu vực nghĩa trang N. K về nhà ở tổ 4, khu C, phường N, thành phố U để đón con trai N là Trần Nhị L. Khi đến đoạn đường liên khu theo hướng từ Nhà văn hóa khu C đi Nhà văn hóa khu N, phường N thì N dừng xe lại để chờ đón anh L, lúc này xe vẫn nổ máy. Khoảng 05 phút sau anh L đi ra ngồi ở ghế phụ, N cài số lùi, đạp chân ga và điều khiển xe ô tô lùi về phía sau. Do không chú ý quan sát phía sau xe, nên xe ô tô do N điều khiển đã va chạm với bà Nguyễn Thị T đang đứng phía sau, làm bà T bị ngã xuống đường và bị lốp trước bên trái xe ô tô cán qua đầu và người bà T. Hậu quả: bà T tử vong tại chỗ.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí lập hồi 16 giờ 45 phút, ngày 25/8/2019, kèm theo sơ đồ hiện trường, thể hiện: Hiện trường chung là đoạn đường liên khu thuộc tổ 4, khu C, phường N, thành phố U, trên đường có nhiều bụi đất, đá sỏi, lòng đường rộng 2,65m. Hiện trường được xác định theo hướng đi từ Nhà văn hóa khu C đến Nhà văn hóa khu N, phường N. Xe ô tô BKS 14C-100.46 đỗ trên mặt đường, đầu xe quay hướng đi Nhà văn hóa khu C. Đo vị trí tâm trục lốp trước và lốp sau bên trái, cách lề đường bên trái đều là 0,4m; từ vị trí tâm trục lốp trước bên trái về hướng đi Nhà văn hóa khu N 4,2m là vị trí tử thi bà Nguyễn Thị T. Tử thi bà T nằm sấp, nghiêng về bên phải mặt đường, phần đầu quay về phía lề đường bên trái, mặt quay về phía đi Nhà văn hóa khu C, phần chân quay về phía lề đường bên phải, đầu và chân phải tử thi cách lề đường bên trái lần lượt là 0,9 m và 1,1m; xung quanh đầu có nhiều máu, đầu biến dạng. Tại hiện trường có vết tì trượt bụi đất còn mới dạng vết lết lốp đơn của xe ô tô có bám dính chất màu đỏ dạng máu ở trên mặt đường; vết này có độ dài 5,9m, điểm cuối vết là lốp trước bên trái xe ô tô; điểm đầu vết cách lề đường bên trái là 0,6m, cách đầu của tử thi là 1,7m.

Kết quả khám nghiệm xe ô tô BKS 14C-100.46 thể hiện: Mặt ngoài góc bên trái nắp thùng xe phía sau có vết chùi trượt bụi còn mới trong diện (15x7)cm, tâm đám chùi cách mép bên trái của nắp thùng xe là 50cm, cách mặt đất 85cm; trên bề mặt lốp trước bên trái, tại vị trí ngang của các chữ cái “IDGESTONE” có bám dính chất màu nâu đỏ dạng máu và các phần tử thịt và óc trong diện (30x10)cm.

Kết quả khám nghiệm tử thi bà Nguyễn Thị T thể hiện: Vùng đầu mặt cổ: đầu và mặt bẹt, biến dạng, vỡ toàn bộ ½ đầu, mặt bên phải vỡ nát, não thoát ra ngoài, kích thước (25x20)cm; ngực bụng: xước da trước ngực, kích thước (28x12)cm hướng từ trái sang phải; gẫy xương sườn 2, 3, 4, 5, 6, 7 cung trước bên phải; tụ máu lưng bên trái, kích thước (26x14)cm; tứ chi: xước da mu tay bên phải, kích thước (3x1)cm, xước gối phải, kích thước (4x1)cm; xước da gối trái, kích thước (3x2)cm.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 55-2019/TT, ngày 28/8/2019 của Trung tâm giám định pháp y – Sở y tế tỉnh Quảng Ninh kết luận: Nguyên nhân tử vong của bà Nguyễn Thị T là do chấn thương sọ não hở.

Nguyên nhân xảy ra tai nạn là do Trần trọng N điều khiển xe ô tô tham gia giao thông khi lùi xe thiếu quan sát, không đảm bảo an toàn.

Tại Cáo trạng số: 129/CT- VKSUB ngày 28/10/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Trần Trọng N đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật hình sự thì Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Xét thấy bị cáo không phải người hành nghề lái xe và cũng không có công việc ổn định, nên đề nghị HĐXX miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra bị cáo đã bồi thường thỏa đáng cho gia đình bị hại. Tại phiên tòa đại diện hợp pháp cho bị hại không còn yêu cầu gì khác, nên không đề cập.

- Về xử lý vật chứng, tài sản trong vụ án: Chiếc xe ô tô bán tải hiệu Mazda BT50, BKS 14C-100.46 cùng các giấy tờ liên quan, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo trong giai đoạn điều tra, nên không đề cập. Đối với giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Trần Trọng N, đề nghị HĐXX trả lại cho bị cáo ngay tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người chứng kiến, với biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí lập hồi 16 giờ 45 phút ngày 25/8/2019 (kèm theo sơ đồ hiện trường), với biên bản khám nghiệm xe ô tô BKS 14C-100.46, với biên bản khám nghiệm tử thi, bản giám định pháp y và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 25/8/2019, tại khu vực đường liên khu, thuộc tổ 4, khu C, phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, Trần Trọng N, là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự có giấy phép lái xe ô tô hợp lệ, đã điều khiển xe ô tô bán tải nhãn hiệu Mazda BT50 biển kiểm soát 14C-100.46, do không chú ý quan sát khi lùi xe đã đâm vào bà Nguyễn Thị T đang đứng phía sau làm cho bà T tử vong tại chỗ, đã vi phạm vào khoản 1 Điều 16 Luật giao thông đường bộ.

Điều 16 Luật giao thông đường bộ quy định:

“1. Khi lùi xe, người điều khiển phải quan sát phía sau, có tín hiệu cần thiết và chỉ khi nào thấy không nguy hiểm mới được lùi.”… Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Điều 260 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;…

Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Về hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, làm tổn hại đến tính mạng của người khác, gây hoang mang, lo lắng cho mọi người mỗi khi phải tham gia giao thông trên đường. Bị cáo là người đã trưởng thành nhận thức rõ về phương tiện mình điều khiển là nguồn nguy hiểm cao độ, khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải chú ý quan sát thấy không có chướng ngại vật mới được lùi, nhưng do chủ quan, cẩu thả thiếu quan sát, bị cáo đã phạm tội. Tuy nhiên cũng cần xem xét cho bị cáo phạm tội do lỗi vô ý, gia đình bị hại cũng đã cảm thông, nhận tiền bồi thường thiệt hại, nên HĐXX sẽ xem xét, cân nhắc đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung tội phạm.

-Tình tiết tăng nặng: Không có.

-Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo là người có thành tích xuất sắc trong công tác “Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn” năm 2018, được Chủ tịch UBND phường N, thành phố U tặng giấy khen. Sau khi phạm tội bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại đã có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy không cần thiết phải bắt bị cáo cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo cải tạo, giáo dục tại địa phương để bị cáo thấy được tính khoan hồng của pháp luật mà vẫn đảm bảo được tính giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm. Lệnh cấm đi khỏi nơi trú số 32 ngày 28/8/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí đối với bị cáo Trần Trọng N cần được hủy bỏ.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật hình sự thì Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Xét thấy bị cáo không phải người hành nghề lái xe và cũng không có công việc ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Về Trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra bị cáo và đại diện gia đình bị hại đã thỏa thuận được với nhau về mức bồi thường thiệt hại (bị cáo đã bồi thường 120.000.000 đồng). Tại phiên tòa hôm nay người đại diện hợp pháp cho bị hại không có yêu cầu gì về phần dân sự, nên HĐXX không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe ô tô bán tải cùng giấy tờ liên quan, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo, nên HĐXX không xem xét; 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Trần Trọng N. Xét thấy không cần thiết phải tạm giữ, nên cần trả lại cho bị cáo ngay tại phiên tòa.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Người đại diện hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên; 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố Bị cáo Trần Trọng N phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trần Trọng N 12 (Mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

2. Về Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn: Áp dụng khoản 4 Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự.

Hy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi trú số 32 ngày 28/8/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố U đối với bị cáo Trần Trọng N.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả ngay tại phiên tòa cho bị cáo 01 giấy phép lái xe số AS 597350 mang tên Trần Trọng N do Sở giao thông vận tải tỉnh Quảng Ninh cấp ngày 12/9/2011.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Trọng N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, nộp Ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 125/2019/HS-ST ngày 11/11/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ  

Số hiệu:125/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;