Bản án 125/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 125/2018/HS-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 148/2018/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2018/QĐXXST-HS ngày 16/11/2018 đối với bị cáo:

1. Phạm Văn H; sinh năm: 1986 tại Nam Định; nơi đăng ký thường trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: nhân viên; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông: Phạm Văn T, sinh năm 1964 và bà: Cao Thị T, sinh năm 1964; có vợ: Nguyễn Thị D, sinh năm 1987 và 01 con: sinh năm 2015; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Lưu Hoàng T; sinh năm: 1981 tại Hậu Giang; nơi đăng ký thường trú: xã C, huyện D, tỉnh Hậu Giang; nơi cư trú: phường E, Quận F, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: tài xế; trình độ học vấn: 06/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông: Lưu Hoàng Ba, sinh năm 1957 và bà: Phan Thị Yến Nga, sinh năm 1959 có vợ: Nguyễn Thị Thủy, sinh năm 1986 và 01 con: sinh năm 2009; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

Bị hại: Công ty Cổ phần X; trụ sở: Phường I, quận B, Tp. Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Trương Đoàn Ngọc T, sinh năm 1993, nơi cư trú: Phường H, quận K, Tp. Hồ Chí Minh. Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 10/11/2016, Công ty cổ phần X (bên bán: công ty X) ký hợp đồng cung cấp bê tông tươi cho công trình xây dựng Tòa nhà Z tại địa chỉ số XX đường YY, Phường I, quận B. Công trình do Công ty Y (bên mua: công ty Y), địa chỉ: Phường N, quận M là nhà thầu thi công. Việc giao nhận 02 bên thống nhất bên công ty X dùng xe ô tô (loại xe bồn) chở bê tông đến giao cho Công ty Y tại công trình, khi giao nhận thì mỗi bên cử một đại diện giám sát theo quy trình là: khi xe bồn chở bê tông của bên bán đến công trình thì tài xế lái xe sẽ đưa cho đại diện bên bán một phiếu xuất bê tông (gồm 03 liên), trong phiếu có ghi mã bê tông, khối lượng bê tông, giờ trộn, giờ xuất xưởng, số niêm chì, số xe … rồi đại diện bên bán (thường gọi là nhân viên điều phối) sẽ đưa phiếu này cho đại diện bên mua để kiểm tra thực tế trên xe, nếu xe còn nguyên niêm chì và bê tông đạt yêu cầu về chất lượng thì sẽ cho tài xế lái xe vào vị trí máy bơm để bơm bê tông từ xe bồn lên vị trí cần đổ, đổ xong thì đại diện bên mua sẽ ký xác nhận vào phiếu xuất (gồm 03 liên), rồi giao cho bên bán 02 liên, còn lại 01 liên do bên mua giữ.

Theo hợp đồng, vào tối ngày 20 rạng sáng ngày 21/10/2017, Công ty Y yêu cầu Công ty X giao khoản 182m3 bê tông để đổ bê tông cho sàn 14-block C của công trình trên; làm công việc giao nhận về phía Công ty X do Phạm Văn H là nhân viên điều phối, phía Công ty Y do anh Võ Minh T1 (sinh năm 1993, hộ khẩu thường trú: xã O, huyện P, tỉnh Ninh Thuận) làm đại diện giao nhận tại công trình. Công ty X có điều một số xe ô tô chở bê tông tươi từ trạm trộn bê tông phường E, Quận F đến giao cho công trình, trong đó có xe ô tô biển số 51E-037.54 do tài xế Lưu Hoàng T điều khiển. Khoảng 01 giờ ngày 21/10/2017, T điều khiển xe trên chở 8m3 bê tông tươi từ trạm pha trộn đến công trình Z và gặp Phạm Văn H (nhân viên điều phối của Công ty) đang làm việc tại công trình, T đưa phiếu xuất (kiêm giấy giao hàng) cho H, H hướng dẫn Thinh điều khiển xe vào vị trí đổ bê tông, lúc này H quan sát thấy anh T1 là nhân viên giám sát của Công ty Y (bên mua) đang bận đo độ sụt của bê tông ở bên trong cổng công trình, không có mặt tại vị trí bơm bê tông nên H nói với T “bán mấy khối, anh em lấy tiền uống cà phê” (ý H không đổ xe bê tông trên xuống công trình mà mang ra ngoài bán lấy tiền chia nhau tiêu xài). T đồng ý và điều khiển xe ra khỏi công trình, chạy đến khu vực ngã ba AA, Quận F thì dừng xe, rút dây nguồn của thiết bị giám sát hành trình trên xe ô tô nhằm mục đích không để công ty phát hiện việc T mang bê tông ra ngoài bán và điều khiển xe chở bê tông đến phường L, Quận F gặp anh Nguyễn Văn L bán số bê tông trên cho anh L với giá 5.200.000 đồng. Sau đó, T điều khiển xe về ngã ba AA cắm dây nguồn của thiết bị giám sát hành trình rồi lái xe về giao cho Công ty X. Khoảng 07 giờ ngày 21/10/2017, T điện thoại hẹn H ra quán cà phê tại địa bàn quận B, chia cho H số tiền 3.800.000 đồng từ việc bán bê tông trên.

Về phía công ty X do nghi ngờ việc T điều khiển xe ô tô trên mang bê tông ra ngoài bán nên đã cử người đi tìm thì phát hiện T đang đổ bê tông tại phường L, Quận F nên đã chụp hình lại và trình báo Công an, Công an Quận F mời các đối tượng trên đến trụ sở lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình xử lý.

Đi với Võ Minh T1, khi nhận theo quy trình làm việc, khi tài xế lái xe bồn chở bê tông vào vị trí đổ thì nhân viên điều phối của bên bán sẽ đưa phiếu xuất cho T1 để kiểm tra và khi xe đổ xong thì T1 phải ký xác nhận vào phiếu xuất, nhưng vào thời điểm ngày 21/10/2017 khi giao nhận xe bê tông cho T điều khiển thì T1 bận vào khu vực trong công trình đo độ sụt của bê tông nên không kiểm tra, nhưng cuối ngày T1 vẫn ký nhận vào phiếu xuất đối với xe bê tông do T điều khiển.

Quá trình điều tra, anh Phạm Thành T2 là đại diện theo ủy quyền của Công ty Y đề nghị xử lý các đối tượng theo quy định pháp luật, riêng 8m3 tươi các bị cáo chiếm đoạt, phía Công ty Y và công ty X đã thỏa thuận khấu trừ số tiền bê tông bị chiếm đoạt vào thời điểm bán hàng tiếp theo của công trình, vì vậy Công ty Y không có yêu cầu bồi thường. Công ty X yêu cầu các bị can phải bồi thường tiền tương đương trị giá 8m3 trị giá 10.920.000 đồng. Các bị cáo Phạm Văn H và Lưu Hoàng T đã tự nguyện giao nộp tổng số tiền 10.920.000 đồng (trong đó bị cáo Phạm Văn H giao nộp 6.660.000, bị cáo Lưu Hoàng T giao nộp 4.260.000 đồng) khắc phục hậu quả (hiện đang nhập kho vật chứng).

Đi với Nguyễn Văn L có hành vi mua bê tông do Phạm Văn H và Lưu Hoàng T trộm được, nhưng khi mua không biết số tài sản trên do các bị cáo phạm tội mà có nên không đủ cơ sở để khởi tố hình sự về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội là có”.

Qua định giá, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng trị giá 8m3 bê tông tươi mà các bị cáo Phạm Văn H và Lưu Hoàng T đã chiếm đoạt là 10.920.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 14 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố các bị cáo Phạm Văn H, Lưu Hoàng T về tội “Lạm dụng tín nhiệm tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát tại phần luận tội đã tóm tắt lại hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu ra các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nêu rõ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo và đề nghị xử phạt các bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Về vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo thẩm quyền.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không tranh luận gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức án dành cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Phạm Văn H, Lưu Hoàng T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Lưu Hoàng T là tài xế của Công ty Cổ phần X được giao chở 8m3 bê tông tươi của công ty trị giá 10.920.000 đồng cho Công ty Y tại công trình xây dựng Z, Phường I, quận B, khi đến công trình thì nhận lời rủ rê của bị cáo Phạm Văn H - nhân viên điều phối của Công ty Cổ phần X tại công trình, nên không giao số bê tông tươi trên cho Công ty Y mà chở đi bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, bị cáo H sau đó đem phiếu xuất 8m3 bê tông cho anh Võ Minh T1 – là người đại diện của Công ty Y có nhiệm vụ nhận bê tông tại công trình, ký xác nhận nhằm hợp pháp quy trình giao nhận bê tông, hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật và Nhà nước bảo hộ mà còn gây mất lòng tin giữa con người với nhau. Các bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là bị pháp luật ngăn cấm và trừng trị nhưng do tham lam, muốn có tiền tiêu xài nên các bị cáo đã cố tình phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm nhằm mục đích cải tạo, giáo dục các bị cáo, đồng thời có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết: các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo đã tự nguyện nộp lại số tiền 10.920.000 đồng để khắc phục hậu quả, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hi đồng xét xử xét thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng và đang có công việc làm ổn định, trong thời gian tại ngoại không có vi phạm pháp luật, nghĩ không cần thiết bắt các bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho các bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và cũng thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự và vật chứng: Bị hại Công ty Cổ phần X yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền tương ứng với trị giá 8m3 bê tông đã bị chiếm đoạt là 10.920.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của Công ty Cổ phần X là có cơ sở nên chấp nhận, buộc các bị cáo bồi thường số tiền 10.920.000 đồng trên cho Công ty Cổ phần X; trong quá trình điều tra các bị cáo Phạm Văn H và Lưu Hoàng T đã nộp số tiền 10.920.000 đồng để khắc phục hậu quả, nên cần giao số tiền trên cho Công ty Cổ phần X.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn H, Lưu Hoàng T phạm tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Phạm Văn H cho Ủy ban nhân dân Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Xử phạt bị cáo Lưu Hoàng T 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Lưu Hoàng T cho Ủy ban nhân dân phường L, Quận F, Tp. Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] Giao số tiền 10.920.000 (Mười triệu chín trăm hai mươi ngàn) đồng cho Công ty Cổ phần X.

(Tình trạng theo Phiếu nhập kho vật chứng số 45/PNK ngày 13/3/2018 của Công an quận Tân Bình) [3] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

[3] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Đã giải thích chế định án treo.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

347
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 125/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:125/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;