TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, TP ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 125/2017/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 18 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 57/2017/TLST-HNGĐ ngày 18/5/2017, về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2017/QĐST- HNGĐ ngày 23/8/2017, và quyết định hoãn phiên tòa số 18/2017/QĐST-HNGĐ ngày 07/9/2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Phan Nhƣ Y - Sinh năm 1985
Trú tại:Tổ 40, phường A, quận B, TP. Đà Nẵng - Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Ngô Trần T - Sinh năm 1980
Trú tại: Tổ 38, phường C, quận D, Tp. Đà Nẵng - Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 11/5/2017, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Phan Như Y trình bày:
Về hôn nhân: Bà và ông T kết hôn vào năm 2009, đăng ký kết hôn tại UBND phường C, quận D; hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại tổ 38, phường C, quận D, Tp. Đà Nẵng. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến đầu năm 2015 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do hai người không hợp nhau về mọi mặt, hiện nay hai người đã sống ly thân từ năm 2015. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Ngô Trần T.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Ngô Trần Ngọc T1, sinh ngày: 29/9/2009. Ly hôn, bà có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Không có
Sau khi nhận được đơn khởi kiện của bà Trần Phan Như Y với nội dung như trên, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên hòa giải. Tuy nhiên, ông T vẫn cố tình né tránh, không cung cấp lời khai, không tham gia các phiên hòa giải. Do đó, Tòa án không biết được quan điểm của ông T đối với yêu cầu nêu trên của nguyên đơn và không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu về việc chấp hành pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, khẳng định Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án. Về người tham gia tố tụng: Cơ bản, đương sự đã chấp hành đúng quy định pháp luật. Riêng ông Ngô Trần T không tuân theo triệu tập của Tòa án, vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa nên ông phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt của mình. Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” của bà Trần Phan Như Y đối với ông Ngô Trần T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về thủ tục tố tụng: Bị đơn, ông Ngô Trần T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Ngô Trần T theo thủ tục chung, ông T phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt của mình.
Về nội dung vụ án: Bà Trần Phan Như Y và ông Ngô Trần T kết hôn vào năm 2013 đăng ký kết hôn tại UBND phường C, quận D. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện.
Đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.
[1] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà Như Y và ông T tồn tại nhưng không thực sự hạnh phúc. Bà Như Y cho rằng nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do hai người không hợp nhau, ông T không chăm lo cuộc sống gia đình, hiện nay hai người đã sống ly thân từ năm 2015. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Ngô Trần T.
Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Tòa án đã động viên bà Như T về tiếp tục sống chung để cùng nhau nuôi dạy con chung và xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng bà Như Y vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn đối với ông T. Xét thấy, mâu thuẩn giữa hai vợ chồng đã đến mức không thể hàn gắn được. Kể từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thông báo về phiên hòa giải. Tuy nhiên, ông T vẫn cố tình né tránh, không cung cấp lời khai, không tham gia các phiên hòa giải và đã vắng mặt hai lần liên tiếp tại phiên tòa. Điều đó chứng tỏ ông không có thiện chí níu kéo mối quan hệ hôn nhân của mình và mâu thuẩn giữa hai vợ chồng đã đến mức không thể hàn gắn được. Do đó, HĐXX xét thấy cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cho bà Như Y được ly hôn với ông T là thỏa đáng.
[2] Về nuôi con chung: Bà Như Y và ông T có 01 con chung tên là Ngô Trần Ngọc T1, sinh ngày: 29/9/2009. Ly hôn, bà Y có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.
Xét nguyện vọng xin được nuôi con chung của bà Như Y thì thấy: Hiện nay cháu Ngô Trần Ngọc T1, sinh ngày: 29/9/2009 là con gái còn rất nhỏ nên cần có được sự chăm sóc từ người mẹ. Hơn nữa cháu T1 hiện đang sống chung với mẹ, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu T1 cho bà Như Y trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi là phù hợp với nguyện vọng của cháu. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án bà Y không có yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con chung, đây là sự tự nguyện của đương sự nên HĐXX chấp nhận.
[3]Về tài sản chung, nợ chung: Do bị đơn không có bản trình bày, nên HĐXX không có cơ sở giải quyết. Sau này nếu có phát sinh tranh chấp sẽ được giải quyết ở vụ án khác.
[4] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Trần Phan Như Y phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58 Luật hôn nhân và gia đình, Điều 147, 227, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” của bà Trần Phan Như Y đối với ông Ngô Trần T;
Tuyên xử:
[1] Về hôn nhân: Bà Trần Phan Như T được ly hôn ông Ngô Trần T.
[2] Về nuôi con chung: Giao con Ngô Trần Ngọc T1, sinh ngày: 29/9/2009 cho bà Trần Phan Như Y trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con Ngô Trần Ngọc T1 đủ 18 tuổi, ông Ngô Trần T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Ly hôn, các bên có quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật.
[3] Về tài sản chung, nợ chung: Không đề cập đến.
[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000đ bà Trần Phan Như Y phải chịu. Nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 4379 ngày 15/5/2017, tại cơ quan Thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn,TP Đà Nẵng.
Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 125/2017/HNGĐ-ST ngày 18/09/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con
Số hiệu: | 125/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về