TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1250/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2018 VỀ LY HÔN
Ngày 22 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 564/2017/TLST–HNGĐ ngày 23 tháng 05 năm 2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 291/2017/QĐXX-ST ngày 14.8.2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 249/2017/QĐST- HNGĐ ngày 01.9.2017, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ngọc H – sinh năm: 1979 Địa chỉ: ấp M, xã T , huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt) Bị đơn: Ông Trần Thanh L – sinh năm: 1974 Địa chỉ: khu phố 2, thị trấn H, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 10.5.2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc H trình bày:
Bà và ông Trần Thanh L tự nguyện kết hôn năm 2005, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn H, huyện H, thành phố Hồ Chí Minh.
Sau khi cưới vợ chồng sống bên chồng, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến tháng 08/2012 vợ chồng phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung, ông L thường xuyên xúc phạm, không tin tưởng vợ, vợ chồng bà đã ly thân khoảng 01 năm nay. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc hôn nhân của bà chỉ còn là hình thức nên bà có nguyện vọng được ly hôn với ông Trần Thanh L.
- Về con chung: 02 trẻ tên Trần Thanh T, sinh ngày 03/10/2006, Trần Thủy T1, sinh ngày 29/4/2012. Bà H yêu cầu được nuôi 02 trẻ T, T1, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Toà án đã tống đạt thông báo thụ lý, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng bị đơn đều vắng mặt không lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: vì đây là tranh chấp ly hôn và bị đơn cư ngụ tại huyện H nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, thành phố Hồ Chí Minh theo các qui định tại khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông L tự nguyện tiến đến hôn nhân. Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 47 quyển số 01/2005 ngày 22.4.2005 do Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp thì đủ cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông L là hôn nhân hợp pháp.
Tại phiên tòa, bà H vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với ông L, bà H khai mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 08 năm 2012. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống, ông L thường xuyên xúc phạm bà, vợ chồng không tin tưởng nhau, vợ chồng bà đã ly thân khoảng 01 năm nay. Hội đồng xét thấy, từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập và thông báo về phiên hòa giải để vợ chồng trở về đoàn tụ với nhau nhưng ông L vẫn cố tình tránh né không đến tòa án, không trình bày ý kiến, yêu cầu của mình. Điều này chứng tỏ ông L không có thiện chí để vợ chồng đoàn tụ, hàn gắn trở về sống chung với nhau. Mặt khác, vợ chồng bà H, ông L đã không còn chung sống với nhau khoảng 01 năm nay, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, mạnh ai nấy sống, đến nay cả hai bên không có phương pháp hay thiện chí hàn gắn. Hội đồng nhận thấy đời sống chung của vợ chồng của bà H, ông L đang ở trong tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên không thể kéo dài. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H.
Về con chung: Trong quá trình chung sống, bà H và ông L có 02 trẻ tên Trần Thanh T - sinh ngày 03/10/2006 và Trần Thủy T1, sinh ngày 29/4/2012. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 trẻ T và T1, bà không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu của bà H phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình và phù hợp với nguyện vọng của trẻ T. Ngoài ra, do ông L không đến Tòa án, không cung cấp lời khai cũng như yêu cầu về phần con chung, ông L đã từ bỏ quyền yêu cầu của mình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H về việc được trực tiếp nuôi 02 trẻ T và T1. Ghi nhận việc bà H không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Đương sự khai không có.
Về nợ chung: Đương sự khai không có.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H phát biểu quan điểm về phần thủ tục tố tụng dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng dân sự theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử áp dụng, tuân thủ đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Những người tham gia phiên tòa chấp hành đúng nội quy phiên tòa.
Về nội dung vụ án: Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Xét đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà H phải nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử:
1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Ngọc H được ly hôn với ông Trần Thanh L.
2/ Về con chung: 02 trẻ Trần Thanh T - sinh ngày 03/10/2006 và Trần Thủy T1, sinh ngày 29/4/2012. Giao cho bà Lê Thị Ngọc H trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục 02 trẻ T và T1. Tạm ngưng tiền cấp dưỡng nuôi con đối với ông L cho đến khi có yêu cầu của bà H.
Vì lợi ích con chung, bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến quyền này. Khi cần thiết, theo yêu cầu của một hoặc hai bên Toà án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con 3/ Về tài sản chung: Không có - Nợ chung: Không có.
4/ Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:
Bà Lê Thị Ngọc H phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng và được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng mà bà H đã nộp theo biên lai số 0030860 ngày 23 tháng 05 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã nộp đủ án phí.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo để xin xét xử phúc thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án 1250/2018/HNGĐ-ST ngày 22/09/2018 về ly hôn
Số hiệu: | 1250/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/09/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về