TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, HÀ NỘI
BẢN ÁN 124/2020/HSST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Hôm nay, ngày 19 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 131/TLST-HS ngày 17/4/2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Anh Q, sinh năm 1995; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 9, ngõ 6A TP, phường TP, quận Đống Đa, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Trần Đức V, sinh năm 1960; Con bà: Nguyễn Thị Y, sinh năm 1963.
Tiền án:
- Bản án số 19 ngày 24/02/2017 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, Hà Nội xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 24 tháng về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.
- Bản án số 75 ngày 29/3/2018 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tổng hợp với Bản án số 19 ngày 24/02/2017 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, Hà Nội; Trần Anh Q phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 24 tháng tù. Ra trại ngày 28/5/2019.
Danh chỉ bản số 055, lập ngày 10/02/2020 tại Công an quận Đống Đa. Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 06/02/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Anh Trần Đình T, sinh năm 1996; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 4, xã Quỳnh Mỹ, huyện Quỳnh Lôi, tỉnh Nghệ An. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 06/02/2020, Trần Anh Q đi bộ đến khu vực ngõ Lương Sử C, phường Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội thì nhìn thấy anh Trần Đình T là lái xe mô tô Grab nên đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chiếc điện thoại của anh T. Sau đó, Q đã thuê anh T chở Q đi đến khu vực đường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Khi đi đến ngõ 744 đường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Q bảo anh T dừng lại chờ Q 2-3 phút. Q đi vào ngõ kiểm tra xem nếu Q thực hiện việc chiếm đoạt chiếc điện thoại của anh T thì có đường tẩu thoát không nhưng thấy chưa thuận lợi nên Q đã bảo anh T chở Q quay lại ngõ Lương Sử C. Đến khoảng hơn 22 giờ cùng ngày, anh T chở Q đến trước số nhà 22, ngõ Lương Sử C, phường Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội. Q đã nói dối anh T đây là nhà Q, điện thoại của Q hết pin nên mượn điện thoại của anh T để gọi cho mẹ Q xuống mở cửa. Anh T đồng ý và đưa chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi Note 7 màu đen cho Q. Lợi dụng anh T không để ý, Q đã cầm điện thoại giả vờ nghe và đi từ từ vào ngõ cạnh số nhà 22, ngõ Lương Sử C để tẩu thoát.
Ngay sau khi bị chiếm đoạt chiếc điện thoại di động, anh T đã đến Công an phường Văn Chương trình báo. Ban chỉ huy Công an phường Văn Chương đã cử anh Hoàng Trường Giang và anh Vũ Sỹ Hiếu là cán bộ Công an phường Văn Chương cùng anh T đi truy tìm Q. Khi đi đến đầu ngõ Lương Sử B, phường Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội thì phát hiện thấy Q đang đứng ở đó và đang cầm điện thoại của anh T trên tay trái nên đã tiến hành bắt giữ.
Tại Kết luận định giá tài sản số 33 ngày 10/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản quận Đống Đa xác định: Trị giá 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi Redmi Note 7 là 3.000.000 đồng. Sim điện thoại Viettel là: 25.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Anh Q đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên. Chiếc điện thoại Xiaomi Redmi Note 7 mà Q chiếm đoạt của anh T đã được thu hồi và trao trả cho anh T. Anh T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Tại Bản cáo trạng số 139/CT-VKSĐĐ, ngày 14/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đã truy tố Trần Anh Q về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Anh Q mức án từ 26 tháng tù đến 30 tháng tù.
Miễn áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm về dân sự nên không xem xét.
Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa, Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Những căn cứ xác định tội danh:
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người bị hại và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định:
Khoảng 22 giờ ngày 06/02/2020, tại khu vực trước cửa số nhà 22 ngõ Lương Sử C, phường Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội, Trần Anh Q đã có hành vi gian dối giả vờ mượn điện thoại để chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động Xiaomi Redmi Note 7 của anh Trần Đình T. Tài sản trị giá 3.000.000 đồng đã được thu hồi và trao trả cho người bị hại.
Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự. Bị cáo Q có 02 tiền án chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của cá nhân được luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo đã bị xét xử 02 lần đều về hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội, vì vậy cần áp dụng một mức hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung. [4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo từ 26 đến 30 tháng tù. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, hợp pháp nên cần xử phạt bị cáo như đề nghị của Viện Kiểm sát.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 174 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp; vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng: 01 điện thoại Iphone màu đen, đã qua sử dụng, số Imei: 356695089153248, thu giữ của Trần Anh Q, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã được nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm về dân sự nên không xét.
[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Trần Anh Q phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
1. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Anh Q 28 (hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/02/2020.
2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Iphone màu đen, đã qua sử dụng, số Imei: 356695089153248.
Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 268 ngày 17/4/2020 của Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa và Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa.
3. Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Anh Q phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.
Bản án 124/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 124/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về