Bản án 124/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 124/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 29 tháng 03 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 410/2018/TLST-HNGĐ ngày 13/12/2018, về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 92/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 03 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà S, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ 13, ấp L, xã V, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Ông M, sinh năm 1982; địa chỉ: Tổ 13, ấp L, xã V, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

Tại phiên tòa, các đương sự vắng mặt và đều có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của bà S; trình bày của ông M cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau:

Hôn nhân của bà S với ông M là do mai mối, gia đình cho tiến đến hôn nhân vào năm 2005, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã V, huyện An Phú, tỉnh An Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 21, quyển 01 ngày 28/01/2005.

Theo bà S, nguyên nhân mâu thuẫn là do ông M có tính cọc cằn, thường hay đe dọa và còn có bệnh động kinh. Sống với ông M bà luôn lo sợ, không hạnh phúc, nên bà xin được ly hôn.

Theo ông M, khi cưới nhau thì bà S có biết ông bị bệnh động kinh nhẹ, thỉnh thoảng ông bị co giật. Thời gian đầu mới cưới nhau hai người sống hạnh phúc. Khoảng năm 2016, khi bà S đi lao động ở Arab Saudi thì hai người sống ly thân. Sau khi về thì bà S l nhạnh tình cảm, có thông tin trong cộng đồng người Chăm là bà xin ly hôn. Nay ông M cũng đồng ý ly hôn với bà S.

Về con chung: Bà S và ông M có 01 con chung tên Âp Dol Co Thiêr, sinh ngày 28/07/2007, hiện nay cháu Âp Dol Co Thiêr sinh sống cùng ông M.

Ông M yêu cầu được nuôi con chung sau ly hôn, không yêu cầu bà S cấp dưỡng nuôi con chung. Bà S đồng ý cho ông M nuôi d y cho chung sau ly hôn.

Tại Biên bản ghi nhận nguyện vọng con chung ngày 12/03/2019, thì cháu Âp Dol Co Thiêr có nguyện vọng chung sống cùng ông M sau khi ông M và bà S ly hôn.

Tài sản chung: Theo đơn khởi kiện thì bà S xác định có tài sản chung gồm: Nhà, xe mô tô, tivi, tủ quần áo có tổng giá trị khoảng 135.000.000 đồng, bà yêu cầu chia đôi. Ngày 28/12/2018 bà S có đơn rút lui yêu cầu chia tài sản chung.

Nợ chung: Không có.

Về chứng cứ:

Bà S cung cấp: Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân xã V cấp ngày 28/01/2005; Bản sao Giấy khai sinh cháu Âp Dol Co Thiêr; bản sao Sổ hộ khẩu gia đình mang tên chủ hộ S; bản sao Giấy chứng minhạnhân dân mang tên S. Ông M cung cấp bản sao Giấy chứng minhạnhân dân mang tên M.

Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân và nơi cư trú của ông M, được ông Ro Ma Ry (Phó ban ấp L) và ông Sắc Ri Gia (cha của bà S) cho biết: Ông S có hộ khẩu thường trú và hiện đang sinh sống tại ấp L, xã V, huyện An Phú, tỉnh An Giang. Ông M có bệnh động kinh từ nhỏ nhưng sinh hoạt bình thường. Về quan hệ hôn nhân thì ông Sắc Ri Gia cho biết giữa bà S và ông M thường cải vả, đời sống vợ chồng không hạnh phúc.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân:

Về tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi. Bà S và ông M đều đề nghị xét xử vắng mặt, nên tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp quy định tại các Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ được công bố tại phiên tòa, có căn cứ xác định hôn nhân giữa bà S với ông M đã đến mức trầm trọng, các bên đã thống nhất ly hôn; thỏa thuận được việc nuôi con chung sau ly hôn, đề nghị công nhận sự thuận tình ly hôn và thỏa thuận nuôi con chung sau ly hôn của các đương sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà S rút lui yêu cầu chia tài sản chung, đề nghị đình chỉ đối với yêu cầu này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật. Ông M và bà S có yêu cầu không tham gia phiên tòa, bảo lưu ý kiến trình bày và không bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự là phù hợp với quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Hôn nhân giữa bà S với ông M có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã xã V, huyện An Phú cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 28/01/2005. Bà S xin ly hôn, ông M có đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại ấp L, xã V, huyện An Phú, tỉnh An Giang nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Phú theo quy định tại các Điều 29, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự và quy định tại Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ hôn nhân:

Về tình cảm: Bà S xác định nguyên nhân mâu thuẫn trong tình cảm là do ông M không lo làm ăn, có bệnh động kinh, thiếu quan tâm chăm lo gia đình, Thường cự cãi và hay dùng lời lẽ đe dọa, nên bà không an tâm trong cuộc sống. Ông M cho rằng ông không có đe dọa, mà từ khi đi lao động ở Arab Saudi về thì bà S có sự thay đổi trong tình cảm, nên dẫn đến mâu thuẫn. Qua xác minh cho thấy, bà S với ông M đã ly thân từ năm 2016, mối quan hệ tình cảm giữa hai người đã đến mức trầm trọng, đời sống vợ chồng không hạnh phúc, cả hai đều có nguyên vọng ly hôn, nên công nhận sự thuận tình ly hôn giữa các đương sự là phù hợp quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Bà S và ông M có 01 con chung tên Âp Dol Co Thiêr, sinh ngày 28/07/2007. Hiện nay, cháu Âp Dol Co Thiêr sinh sống cùng ông M. tại Biên bản ghi nhận ý kiến ngày 12/03/2019, cháu Âp Dol Co Thiêr có nguyện vọng sống cùng ông M; bà S cũng đồng ý để cháu Âp Dol Co Thiêr cho ông M nuôi dạy sau ly hôn, nên công nhận sự thỏa thuận nuôi con chung sau ly hôn giữa các đương sự là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Công nhận sự tự nguyện của ông M không yêu cầu bà S cấp dưỡng để nuôi con chung.

Tuy nhiên, ông M cùng các thành viên trong gia đình không ai được cản trở bà S trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Do trong quá trình giải quyết vụ án, bà S rút lui yêu cầu chia tài sản chung, để bà và ông ông M tự giải quyết, nên đình chỉ yêu cầu này. Nếu bà S và ông M không tự giải quyết được thì được khởi kiện chia tài sản chung, nếu các đương sự có kiện chia tài sản chung thì sẽ được thụ lý giải quyết theo quy định.

Nợ chung: Các đương sự khai không có, nên không xem xét giải quyết.

[4] Về chi phí tố tụng:

Bà S là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm;

Hoàn trả tiền tạm ứng án phí yêu cầu chia tài sản chung cho bà S.

Các đương sự không phải chịu chi phí tố tụng khác.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào các điều 55, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ các điều 147, 217, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 3 Điều18; điểm a khoản 4 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Bà S được ly hôn với ông M.

Về con chung: Ông M được tiếp tục nuôi dạy con chung tên Âp Dol Co Thiêr, sinh ngày 28 tháng 07 năm 2007.

Công nhận sự tự nguyện của ông M không yêu cầu bà S cấp dưỡng nuôi con chung.

Đình chỉ yêu cầu chia tài sản chung của bà S.

Về án phí: Bà S phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, số tiền này được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà S đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Phú theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010961 ngày 13/12/2018. Hoàn lui cho bà S 1.687.000 (Một triệu sáu trăm tám mươi bảy nghìn) đồng.

Án tuyên công khai, các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

(Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 124/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:124/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;