Bản án 124/2019/HNGĐ-ST ngày 22/02/2019 về ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 124/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2019 VỀ LY HÔN

Trong ngày 22 tháng 02 năm 2019 tại Phòng xử án trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 579/2018/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2018, về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 13/2019/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà H, sinh năm 1994;

Địa chỉ: phường N, Quận MH, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt – có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông T , sinh năm 1994;

Địa chỉ: Phường MH, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 20/8/2018 cùng lời khai của bà H trình bày như sau:

Bà H và ông T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn vào năm 2016 theo giấy chứng nhận kết hôn số 39 do Ủy ban nhân dân Phường MH, Quận S cấp ngày 05/4/2016. Sau khi kết hôn, cả hai chung sống tại nhà gia đình ông T. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do ông T không lo làm ăn chỉ lo ăn chơi cờ bạc và dùng ma túy đá. Bà H đã cho ông T rất nhiều cơ hội để sửa chữa nhưng ông T vẫn không thay đổi. Nhiều lần bà H đã phải trả nợ thay cho ông T. Đến năm 2016 bà H và ông T đã sống ly thân cho đến nay.

- Nay bà H xác định không còn tình cảm vợ chồng , nên yêu cầu ly hôn với ông T

- Về con chung: Bà H xác định không có con chung với ông T.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác định không có.

Ngày 30/01/2019 bà H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Phía ông T không đến Tòa án nhân dân Quận 6 để làm bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiến cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như không tham gia phiên tòa, không có văn bản nêu ý kiến.

Bà Nguyễn Thị Dịu Thùy – Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Việc giải quyết vụ án dân sự nêu trên của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự là phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự . Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, hồ sơ vụ án thẩm tra tại phiên toàn và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, cùng ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thủ tục tố tụng:

Ngày 20/8/2018, bà H nộp đơn khởi kiện đề ngày 20/8/2018 (có hình thức, nội dung theo Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự), xin ly hôn đối với ông T, hiện đang cư trú tại Phường MH, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh, do đó đây là tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 6 theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tòa án nhân dân Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự, để triệu tập ông T đến Tòa án nhân dân Quận 6 làm bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiến cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa. Nhưng ông T đã không đến Tòa án nhân dân Quận 6 để: làm bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiến cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa. Xét việc bà H là nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và ông T là bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà H và ông T .

[2]. Về yêu cầu của đương sự:

Tòa án nhân dân Quận 6 đã tống đạt hợp lệ cho ông T thông báo thụ lý số 1346/TB-TLVA ngày 29/8/2018 về việc thụ lý vụ án “Ly hôn” theo đơn khởi kiện của bà H yêu cầu ly hôn với ông T. Phía ông T không có văn bản ghi ý kiến, cũng như không đến Tòa án nhân dân Quận 6 theo giấy triệu tập để trình bày ý kiến, chứng tỏ ông T đã “không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu…” mà bà H đưa ra. Chính vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân Quận 6 công nhận những tình tiết, sự kiện và tài liệu do bà H đưa ra có giá trị chứng minh.

- Xét quan hệ hôn nhân :

Bà H và ông T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 39 do Ủy ban nhân dân Phường MH, Quận S cấp ngày 05/4/2016. Nên căn cứ Luật hôn nhân và gia đình quan hệ hôn nhân của bà H và ông T là hợp pháp.

Xét: Khi bà H có đơn xin ly hôn, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông T đến Tòa để ghi nhận ý kiến và tham gia phiên hòa giải, để ông T có thể trình bày ý kiến nhằm giải tỏa vướng mắc của vợ chồng, xây dựng lại gia đình hạnh phúc, nhưng ông T không đến Tòa án. Điều này chứng tỏ, ông T đã không để tâm đến việc hàn gắn tình cảm vợ chồng, thiếu trách nhiệm với gia đình và không tôn trọng pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà H khai: Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2014 do ông T không lo làm ăn chỉ lo ăn chơi cờ bạc và dùng ma túy đá. Bà H đã cho ông T rất nhiều cơ hội để sửa chữa nhưng ông T vẫn không thay đổi. Nhiều lần bà H đã phải trả nợ thay cho ông T. Đến năm 2016 bà H và ông T đã sống ly thân cho đến nay.

Như vậy, giữa bà H và ông T đã có phát sinh mâu thuẫn vợ chồng từ năm 2014 dẫn đến việc cả hai sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Nay bà H xác định không còn tình cảm vợ chồng, nên yêu cầu ly hôn với ông T, chng tỏ mâu thuẫn vợ chồng không hòa giải được. Điều này cho thấy, tình nghĩa vợ chồng của bà H và ông T không còn như Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình đã nêu: “1.Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau…”.

Chính vì vậy có cơ sở khẳng định hôn nhân của bà H và ông T lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Từ những nhận định trên, có cơ sở kết luận việc bà H xin ly hôn là hoàn toàn tự nguyện xuất phát từ mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H.

- Về con chung: bà H khai không có con chung với ông T, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tài sản chung: Bà H khai không có tài sản chung với ông T, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Bà H khai không có nợ chung với ông T, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, thì bà H chịu án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu tiền tạm ứng số: AA/2018/0010215, ngày 28/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 177, Điều 189, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 266, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14; Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của bà H:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà H được ly hôn ông T.

- Về con chung: Bà H khai không có con chung với ông T.

- Về tài sản chung: Bà H khai không có tài sản chung với ông T.

- Về nợ chung: Bà H khai không có nợ chung với ông T.

2. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà H chịu án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu tiền tạm ứng số: AA/2018/0010215, ngày 28/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

3. Bà H và ông T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

* Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 124/2019/HNGĐ-ST ngày 22/02/2019 về ly hôn

Số hiệu:124/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;