Bản án 123/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 123/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 102/2020/TLST- HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2021/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1/ Huỳnh Ngọc C (tên gọi khác: U), sinh năm 1983 tại Bình Dương. Nơi cư trú:119/10 khu phố Đ, phường L, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn V (đã chết) và bà Châu Kim L, sinh năm 1959; bị cáo có vợ tên Huỳnh Thị Hồng E và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không có.

Nhân thân:

- Bản án số 186/2005/HSST ngày 11/8/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt bị cáo 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Quyết định số 255/QĐ-UBND ngày 27/12/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh thời hạn 24 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị bắt, tạm giam ngày 18/4/2020. Có mặt.

2/ Phạm Trần Thiên Q, sinh năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú:

1/2C ấp T3, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Ngọc T, sinh năm 1958 và bà Trần Thị Kim H, sinh năm 1960; bị cáo có vợ tên Trần Thị Hồng U và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không có.

Nhân thân:

- Quyết định số 44/2015/QĐ-TA ngày 22/01/2015 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Quyết định số 27 ngày 26/10/2020 của Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Bình Dương khởi tố bị can về tội “Chế tạo, sử dụng trái phép vật liệu nổ”.

Bị bắt, tạm giam ngày 01/10/2020. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Ông Phạm Ngọc T, sinh năm 1958; nơi cư trú: 1/2C ấp T3, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh (đã chết). Người đại diện hợp pháp: Bà Trần Thị Kim H, sinh năm 1960; nơi cư trú: 1/2C ấp T3, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh (vợ ông T, có mặt).

2/ Ông Lê Tuấn K, sinh năm 1989; nơi cư trú: Khu phố X, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

Người làm chứng: Ông Phan Thành T, bà Phạm Thị Kim N, bà Huỳnh Thị Hồng E và bà Nguyễn Thị Tuyết M (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 19/8/2020, khi tổ tuần tra của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương phối hợp cùng Công an phường L tiến hành kiểm tra hành chính nhà số 119/10 khu phố Đ, phường L, thành phố T, tỉnh Bình Dương phát hiện các đối tượng Huỳnh Ngọc C (chủ nhà), Phan Thành T và Phạm Thị Kim N đang sử dụng ma túy và tại vị trí các đối tượng này đang ngồi có 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, trên bàn phía sau chỗ đối tượng N ngồi có 01 hộp nhựa bên trong có 01 túi nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng (bị cáo C khai nhận là ma túy đá). Tiếp tục khám xét phòng ngủ của C, lực lượng công an phát hiện phía góc bên phải nệm bên dưới gối có 01 túi nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng và tại ngăn tủ kéo thứ nhất bên trái từ trên xuống có 01 túi nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng (tất cả các túi này bị cáo C đều khai nhận là ma túy đá của C). Lực lượng công an đã đưa đối tượng cùng tang vật về trụ sở để làm việc.

Qua điều tra, bị cáo C khai nhận vào khoảng 12 giờ ngày 19/8/2020, khi C đang ở nhà và sử dụng ma túy cùng bạn quen biết ngoài xã hội là T thì có bạn của con gái là N đến chơi, N xin sử dụng ma túy chung thì bị cáo đồng ý. Khi cả 03 đang sử dụng thì bị lực lượng công an đến kiểm tra và bắt quả tang. Toàn bộ số ma túy thu giữ tại nhà số 119/10 khu phố Đ đều là ma túy do C đặt mua vào ngày 15/8/2020 từ người thanh niên tên Q (không rõ nhân thân lai lịch) thông qua ứng dụng Messenger Facebook với số lượng ma túy tương ứng số tiền 5.000.000đồng và được hướng dẫn nhận hàng tại khu vực chùa P thuộc huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh từ một người thanh niên có đặc điểm khoảng 25 tuổi, dáng người cao, da ngăm đen, đeo khẩu trang (C không biết rõ nhân thân lai lịch). Sau khi mua ma túy về thì C chia nhỏ cất giấu trong nhà nhằm mục đích sử dụng dần và không ai biết việc cất giấu ma túy của C.

Mở rộng điều tra, cơ quan điều tra xác định: Vào khoảng tháng 7/2019, C có đặt mua ma túy của đối tượng Phạm Trần Thiên Q qua ứng dụng Messenger với giá 1.500.000đồng, nhưng C không thanh toán bằng tiền mặt cho Q mà hai bên trao đổi bằng hình thức C nhận làm cho Q 01 căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe giả (hai bên thống nhất giá cả của 02 giấy tờ này là 1.500.000đồng). Khi tiến hành khám xét nơi ở của Q tại địa chỉ 1/2C ấp T3, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan công an đã thu giữ:

- 02 (hai) thẻ căn cước công dân cùng số 079091004510 mang tên Phạm Trần Thiên Q.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 51H-74893.

- 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Phạm Trần Quang V.

- 01 (một) thẻ nhựa Sacombank mang tên “ PHUNG DUC P”.

- 01 (một) thẻ nhựa DONG A BANK tên “ PHAM NGOC T”.

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng B2 Phạm Trần Quang V.

- 01 (một) thẻ sim 1610526109624.

- 01 (một) điện thoại di động Nokia 150, màu đen kèm sim số thuê bao 0931485657.

- 01(một) khẩu súng hiệu PCP trên thân súng có dòng chữ CRICCKET X.

- 01 (một) dao gấp màu đen dài khoảng 20cm.

- 01 (một) hộp thiếc có ghi dòng chữ Mendos bên trong có 85 (tám mươi lăm) viên đạn chì.

- 01 (một) túi nylon miệng kéo dính.

- 01 (một) ống kim loại, 01 (một) ly thủy tinh kèm theo 01 (một) ống hút nhựa màu đen, 01 (một) túi nylon miệng kéo dính viền đỏ.

- 03 (ba) túi nylon miệng kéo dính viền đỏ đều chứa tinh thể màu trắng kèm theo 01(một) chai nhựa đã bị cắt phần đít chai nhựa.

- 01(một) cân điện tử màu trắng có ghi dòng chữ INSTRUCTIONS.

- 01(một) ống nylon bọc thực phẩm.

- 02 (hai) trái nhựa hình cầu màu xanh – vàng gắn kèm đoạn dây nylon; 02 (hai) trái nhựa màu xanh dương hình cầu gắn kèm đoạn dây màu xanh lá; 02 (hai) trái nhựa hình cầu màu xanh đỏ gắn kèm đoạn dây nylon màu xanh lá; 01(một) trái nhựa hình cầu màu xanh lá đỏ gắn kèm đoạn dây nylon màu xanh lá; 01 (một) trái nhựa màu đỏ hình cầu gắn kèm đoạn dây nylon màu xanh lá.

- 01 (một) bịch nylon màu đen đựng các túi nylon miệng kéo dính.

- 01 (một) bịch nylon chứa chất bột màu đen.

- 01(một) thẻ căn cước công dân số 079097012190 mang tên Trần Quốc Q.

- 01 (một) thẻ sim 4G Viettel có dãy số 8984048000006359165.

- 01 (một) túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng chứa trong bao thuốc lá hiệu Jet.

- 01 (một) túi nylon miệng kéo dính viền trắng.

- 01 (một) túi nylon miệng kéo dính viền đỏ.

- 05 (năm) túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng; 01(một) chai nhựa bị cắt phần đít chai - 01 (một) cân điện tử màu đen có chữ “ POCKET SCALE”.

- 02 (hai) mắt camera hiệu Imou.

- 01(một) điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen kèm sim 4G Mobifone 8401190850744696WD.

- 01 (một) đoạn ống hút nhựa màu xám có chữ “ NHUA BINH”.

- 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Sonic mang biển kiểm soát 61G1-70565 Kết quả điều tra xác định: Số ma túy thu giữ tại nhà Q có nguồn gốc do Q mua của một nam thanh niên khoảng 25 tuổi, cao khoảng 1,7m vào khoảng 01 tuần trước khi bị bắt tại khu vực dãy nhà TT thuộc xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 1.400.000đồng, sau khi mua thì Q mang về nhà cất giấu nhằm mục đích sử dụng.

Đối với các tài liệu thu giữ tại nhà Q: Bị cáo Q khai nhận 01 (một) thẻ Căn cước công dân số 079091004510 tên Phạm Trần Thiên Q là thật. Còn 05 (năm) tài liệu khác do Q cung cấp thông tin, hình ảnh bằng hình thức gửi qua mạng xã hội cho bị cáo C để nhờ bị cáo C làm giả các loại giấy tờ gồm 01 giấy phép lái xe, 02 căn cước công dân, 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe với giá 1.500.000đồng/giấy phép lái xe và 1.000.000đồng/các giấy tờ còn lại nhằm mục đích mang theo trong người để đối phó với các cơ quan chức năng nếu bị kiểm tra. Khi nhận được thông tin cá nhân và hình ảnh từ Q, C sử dụng mạng xã hội Zalo liên hệ với tài khoản có tên “Pe heo” để đặt làm 01 giấy phép lái xe hạng B2 mang tên Phạm Trần Quang V và 01 thẻ căn cước công dân mang tên Phạm Trần Thiên Q. Bị cáo C khai nhận chỉ làm cho Q 02 loại giấy tờ này, đối với các giấy tờ khác (gồm 01 căn cước công dân mang tên Trần Quốc Q, 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Trần Quang V và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô mang tên Phạm Ngọc T) thì không phải do C làm. Sau khi chủ tài khoản Zalo “Pe heo” làm xong thì có một người đàn ông chạy dịch vụ Grab đến phường L, thành phố T giao cho C. Khoảng giữa tháng 7/2019, Q đến nhà C tại địa chỉ như trên để nhận 01 giấy phép lái xe mang tên Phạm Trần Quang V (có hình của Q) và Q đưa lại cho C 01 bịch ma túy, hai bên thỏa thuận cấn trừ vào hàng hóa của nhau (đồng giá 1.500.000đồng), không ai phải đưa thêm tiền. Đối với căn cước công dân mang tên Phạm Trần Thiên Q khi C làm xong thì Q đến nhà C để nhận và trả số tiền 1.000.000đồng.

Đối với số tang vật là 03 gói nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng thu giữ tại nhà bị cáo C: Ngày 27/8/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có kết luận giám định số 533/MT-PC09 với nội dung: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định đều là ma túy, có khối lượng 1,0425 gam (M1); 20,8699 gam (M2);

0,2174 gam (M3); tổng khối lượng là 22,1298 gam; loại Methamphetamine.

Đối với số tang vật là 03 túi nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, 01 túi nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng và 05 túi nilon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng thu giữ tại nhà của đối tượng Phạm Trần Thiên Q, ngày 02/10/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có kết luận giám định số 628/MT-PC09 với nội dung: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định đều là ma túy, có khối lượng 0,7560 gam (M1); 1,5023 gam (M2); 0,9528 gam (M3); tổng khối lượng là 3,2111 gam; loại Methamphetamine.

Đối với các tài liệu thu giữ tại nhà của bị cáo Q, ngày 05/10/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có kết luận giám định số 418/GĐ-PC09 với nội dung:

1. Một (01) “Căn cước công dân” số: 079091004510, họ tên “Phạm Trần thiên Q”, năm: sinh 1991, nơi thường trú: 1/2C ấp T3, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, đề ngày 06/01/2017 (ký hiệu A2) là giả.

2. Một (01) “Căn cước công dân” số: 079097012190, họ tên “Trần Quốc Q”, năm: sinh 1997, nơi thường trú: 49/6, khu phố Y, thị trấn H, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, đề ngày 29/7/2019 (ký hiệu A3) là giả.

3. Một (01) “Giấy phép lái xe” PET, số:790146965500, họ tên “Phạm Trần Quang V”, sinh năm: 1994, nơi thường trú: 1/2C ấp T3, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, đề ngày 22/9/2014 (ký hiệu A4) là giả.

4. Phôi và hình dấu tròn có nội dung “*CỘNG HÒA X.H.C.N VIỆT NAM* CÔNG AN TP. HỒ CHÍ MINH” trên 01 (một) “Giấy chứng minh nhân dân” số:

025114797, họ tên “Phạm Trần Quang V”, năm sinh 1994, nơi thường trú: 1/2C ấp T3, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, đề ngày 14/4/2011 (ký hiệu A4) là giả bằng phương pháp in phun màu điện tử.

5. Phôi và hình dấu tròn có nội dung “* CÔNG AN TP HỒ CHÍ MINH * PHÒNG CSGT ĐƯỜNG BỘ ĐƯỜNG SẮT” trên 01 (một) giấy “Chứng nhận đăng ký xe ô tô” số: 565351, tên chủ xe: Phạm Ngọc T, địa chỉ: 1/2C ấp T3, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, đề ngày 23/4/2020 (ký hiệu A5) là giả bằng phường pháp in phun màu điện tử Ngày 11/01/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có kết luận giám định số 08/GĐ-PC09 với nội dung: 01 (một) thẻ Căn cước công dân số 079091004510 tên Phạm Trần Thiên Q (ký hiệu A1) là thật.

Đối với 01 khẩu súng hiệu PCP trên thân súng có ghi dòng chữ CRICCKET X kèm 01 hộp kim loại đựng 85 viên đạn chì thu giữ tại nhà Q, ngày 30/11/2020, Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an có kết luận giám định số 5978/C09B có nội dung:

- 01 (một) khẩu súng gửi giám định là súng hơi nằm trong danh mục súng săn; không phải vũ khí quân dụng; súng sử dụng khí nén để đẩy viên đạn có đường kính có đường kính 6,35 mm ra khỏi nòng súng; dùng khẩu súng trên nhắm bắn đạn vào cơ thể người có thể gây sát thương.

- 85 (tám mươi lăm) viên đạn gửi giám định là đạn chì mũi dù kích thước 6,35 mm, không phải là vũ khí quân dụng; sử dụng được cho khẩu súng nêu trên.

Đối với tang vật thu giữ tại nhà Q bao gồm: 01 (một) túi nylon chứa chất bột màu đen và 08 (tám) vật hình cầu (dạng giống quả bóng đá), vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc, đường kính 02 cm, một đầu có gắn đoạn dây màu xanh. Ngày 30/11/2020, Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an có kết luận giám định số 5975/C09B có nội dung:

- 01 (một) túi nylon chứa chất bột màu đen gửi giám định là thuốc nổ đen, thành phần chính gồm: KCLO3 (Kali Clorat), S (lưu huỳnh), C (bột than) và thuốc nhóm vật liệu nổ. Khối lượng là 46 gam. Thuốc nổ đen thường được sử dụng trong các loại đạn và pháo nổ. Không đủ cơ sở xác định tỷ lệ, khối lượng các hợp chất tạo thành và khả năng sát thương.

- 08 (tám) vật hình cầu (dạng giống quả bóng đá), vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc, đường kính 02 cm, một đầu có gắn đoạn dây màu xanh gửi giám định đều là pháo nổ.

Bên trong có chứa thuốc nổ đen, thành phần chính gồm: KCLO3 (Kali Clorat), S (lưu huỳnh), C (bột than). Khi đốt phát ra tiếng nổ lớn. Khối lượng là 17,5 gam. Không đủ cơ sở xác định tỷ lệ, khối lượng các hợp chất tạo thành và khả năng sát thương Tại bản Cáo trạng số 117/CT-VKS -TA ngày 23/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Huỳnh Ngọc C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); truy tố bị cáo Phạm Trần Thiên Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hâu quả hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Huỳnh Ngọc C từ 07 năm tù đến 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”; đề nghị tuyên xử bị cáo Phạm Trần Thiên Q từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 21,6465 gam ma túy, loại Methamphetaminelà mẫu vật hoàn lại sau giám định, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 (hai) bộ dụng cụ sử dụng ma túy thu giữ tại nhà bị cáo Châu là công cụ để sử dụng trái phép chất ma túy nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 2,9715 gam ma túy, loại Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) túi nylon được niêm phong đựng một túi nyon chứa thuốc nổ đen, kèm theo 07 (bảy) trái pháo nổ hình cầu là mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phân viên khoa học hình sự Bộ Công an thu giữ tại địa chỉ: 1/2C ấp T3, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan An ninh điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã gửi công văn chuyển thông tin tội phạm kèm tang vật liên quan đến Cơ quan An ninh điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh xử lý.

- Đối với 01 (một) xe ô tô biển số 51H – 748.93, nhãn hiệu Mazda 3 do ông Phạm Ngọc T đứng tên sở hữu có cho bị cáo Q mượn sử dụng nhưng không rõ làm gì, 01 (một) thẻ nhựa ngân hàng DONGA Bank có dãy số 9704061808137790 có chữ “PHAM NGOC T” của ba bị cáo Q là ông Phạm Ngọc T; 01 (một) thẻ nhựa căn cước công dân Phạm Trần Thiên Q số 079091004510 (ký hiệu A1) là thật của Phạm Trần Thiên Q, 02 (hai) mắt camera hiệu IMOU. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thuận An ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông Phạm Ngọc T là có căn cứ, đúng pháp luật.

- 01 (một) thẻ nhựa căn cước công dân Phạm Trần Thiên Q số 079091004510 (ký hiệu A2); 01 (một) thẻ nhựa căn cước công dân Trần Quốc Q số 079097012190 (ký hiệu A3); 01 (một) thẻ nhựa Giấy phép lái xe hạng B2 Phạm Trần Quang V, số:

790146965500 (ký hiệu A4); 01 (một) chứng minh nhân dân Phạm Trần Quang V, số:

025114797 (ký hiệu A5); 01 (một) chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 51H – 748.93 mang tên Phạm Ngọc T (ký hiệu A6) là các loại giấy tờ giả của bị cáo Q, 01 (một) thẻ nhựa ngân hàng Sacombank tên “PHUNG DUC P” do bị cáo Q mượn Phùng Đức P, sinh năm: 1981, HKTT: 82/12, ĐP, tổ M, phường N, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng Phùng Đức P không có nhu cầu nhận lại nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với các đồ vật gồm: 01 (một) túi nylon được niêm phong bên trong có đựng 01 (một) bịch nylon màu đen đựng các túi nylon miệng kéo dính; 01 (một) túi nylon niêm phong đựng 01 (một) đoạn ống nhựa có chữ “NHUA BINH”; 01 (một) túi nylon được niêm phong đựng 01 (một) ly thủy tinh kèm 01 (một) đoạn ống hút nhựa màu đen; 01 (một) túi nylon được niêm phong đựng 01 (một) cân điện tử màu trắng có chữ “INSTRUCTIONS”, 01 (một ) cân điện tử màu đen có chữ “POCKET SCALE”, 01 (một) ống nylon bọc thực phẩm; 01 (một) túi nylon được niêm phong đựng ống kim loại kèm 01 (một) túi nylon miệng kéo dính viền đỏ 01 (một) dao bấm màu đen, 01 (một) thẻ sim 4G viettel có dãy số: 8984048000006359165, 01 (một) thẻ sim 1610526109624,đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với một khẩu súng PCP có chữ CRICCKET X, qua công tác giám định xác định là Súng săn, kèm theo 75 viên đạn chì (mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an). Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Phạm Trần Thiên Q về hành vi sử dụng vũ khí là súng săn không có giấy phép nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô biển số 61G1 – 705.65, kiểu dáng SONIC. Quá trình điều tra xác định do Lê Tuấn K, sinh năm: 1989, HKTT: Khu phố X, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương đứng sở hữu, ông K thường xuyên cho Q mượn xe đi công việc nhưng không biết Q sử dụng xe vào mục đích phạm tội nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương trả lại xe mô tô nêu trên cho Lê Tuấn K là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 150 kèm sim và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 kèm sim, qua điều tra xác định đây là tài sản của bị cáo Q, không sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho bị cáo Q.

Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo C tại khu vực chùa P thuộc huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh và nam thanh niên đã bán ma túy cho bị cáo Q tại khu vực dãy nhà TT thuộc xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

Đối với các đối tượng Phan Thành T và Phạm Thị Kim N: Qua điều tra xác định T và N không biết C tàng trữ ma túy tại nhà nên Cơ quan điều tra không tiến hành xử lý hình sự đối với hai đối tượng này là có căn cứ.

Đối với đối tượng Huỳnh Thị Hồng E (tên gọi khác: N, là vợ của bị cáo C) và đối tượng Nguyễn Thị Tuyết M (là người chung sống như vợ chồng với bị cáo Q): Qua điều tra xác định việc bị cáo C và bị cáo Q tàng trữ ma túy cũng như thực hiện giao dịch mua bán ma túy với nhau thì cả E và M đều không biết nên Cơ quan điều tra không tiến hành xử lý đối với E và M là có căn cứ.

Đối với chủ tài khoản Zalo “Pe heo” mà bị cáo C liên lạc để đặt làm giấy tờ giả cho Q, hiện chưa xác định được thông tin cụ thể, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng theo nội dung Viện kiểm sát truy tố. Các bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Huỳnh Ngọc C và Phạm Trần Thiên Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo trước Tòa.

Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 19/8/2020, tại nhà số 119/10 khu phố Đ, phường L, thành phố T, bị cáo Huỳnh Ngọc C có hành vi tàng trữ 22,1298 gam ma túy, loại Methamphetamine. Ngày 01/10/2020, tại nhà số 1/2C ấp T3, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Phạm Trần Thiên Q có hành vi tàng trữ 3,2111 gam ma túy, loại Methamphetamine, đồng thời vào khoảng tháng 7 năm 2019, bị cáo Q cung cấp thông tin cá nhân và hình ảnh để nhờ bị cáo C làm giả 05 tài liệu gồm 01 giấy phép lái xe, 02 căn cước công dân, 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe với giá 1.500.000đồng/giấy phép lái xe và 1.000.000đồng/các giấy tờ còn lại. Khi nhận được 01 giấy phép lái xe, bị cáo Q thanh toán cho bị cáo C bằng hình thức đưa cho C 01 bịch ma túy mà 02 bên đã thỏa thuận có giá trị tương đương nhau (1.500.000đồng), các giấy tờ còn lại Q trả tiền mặt cho C với số tiền 1.000.000đồng/cái. Mặc dù bị cáo C chỉ thừa nhận làm giả cho Q 02 giấy tờ nhưng qua quá trình điều tra và xét hỏi tại phiên tòa có cơ sở xác định tổng số giấy tờ mà bị cáo C nhận làm giả cho bị cáo Q là 05 giấy tờ.

Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo Huỳnh Ngọc C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm c khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); truy tố bị cáo Phạm Trần Thiên Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251, tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm c khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo Q nhận thức được hành vi cố ý mua, tàng trữ trái phép chất ma túy để bán cho người khác nhằm mục đích kiếm lời và bị cáo C đã mua ma túy rồi cất giấu trong nhà nhằm mục đích sử dụng là vi phạm pháp luật Hình sự nhưng để thỏa mãn cơn nghiện và có tiền tiêu xài mà không phải tốn nhiều sức lao động, các bị cáo đã cùng nhau thực hiện hành vi mua bán, tàng trữ ma túy, hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Ngoài ra, các bị cáo C và Q đã thực hiện hành vi làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức nhằm mục đích đối phó với lực lượng chức năng khi bị kiểm tra đã xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước về con dấu, tài liệu. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội, có thể bị trừng trị trước pháp luật nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức xem thường pháp luật.

Vì vậy phải xét xử mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, cần xem xét, phân hóa vai trò phạm tội. Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và hành vi mua bán trái phép chất ma túy, các bị cáo phạm tội độc lập nên không thể xác định vai trò của từng bị cáo. Đối với hành vi làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức: Hành vi này có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, trong đó, bị cáo C là người trực tiếp thực hiện việc làm giả các tài liệu trên cơ sở đặt hàng và thông tin, hình ảnh do bị cáo Q cung cấp.

Bị cáo C và bị cáo Q đều có nhân thân xấu. Trong đó, C từng bị Tòa án xét xử về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” và từng bị xử lý hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Q từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” nhưng cả hai đều không lấy đó làm bài học cho bản thân mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng cho các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo C tại khu vực chùa P thuộc huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh và nam thanh niên đã bán ma túy cho bị cáo Q tại khu vực dãy nhà TT thuộc xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

Đối với các đối tượng Phan Thành T và Phạm Thị Kim N: Qua điều tra xác định T và N không biết C tàng trữ ma túy tại nhà nên Cơ quan điều tra không tiến hành xử lý hình sự đối với hai đối tượng này là có căn cứ.

Đối với đối tượng Huỳnh Thị Hồng E (tên gọi khác: N, là vợ của bị cáo C) và đối tượng Nguyễn Thị Tuyết M (là người chung sống như vợ chồng với bị cáo Q): Qua điều tra xác định việc bị cáo C và bị cáo Q tàng trữ ma túy cũng như thực hiện giao dịch mua bán ma túy với nhau thì cả E và M đều không biết nên Cơ quan điều tra không tiến hành xử lý đối với E và M là có căn cứ.

Đối với chủ tài khoản Zalo “Pe heo” mà bị cáo C liên lạc để đặt làm giấy tờ giả cho Q, hiện chưa xác định được thông tin cụ thể, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 21,6465gam ma túy, loại Methamphetaminelà mẫu vật hoàn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 (hai) bộ dụng cụ sử dụng ma túy thu giữ tại nhà bị cáo Châu là công cụ để sử dụng trái phép chất ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 2,9715 gam ma túy, loại Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) túi nylon được niêm phong đựng một túi nyon chứa thuốc nổ đen, kèm theo 07 (bảy) trái pháo nổ hình cầu là mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phân viên khoa học hình sự Bộ Công an thu giữ tại địa chỉ: 1/2C ấp T3, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan An ninh điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã gửi công văn chuyển thông tin tội phạm kèm tang vật liên quan đến Cơ quan An ninh điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh để xử lý theo thẩm quyền.

- Đối với 01 (một) xe ô tô biển số 51H – 748.93, nhãn hiệu Mazda 3 do ông Phạm Ngọc T đứng tên sở hữu có cho bị cáo Q mượn sử dụng nhưng không rõ làm gì, 01 (một) thẻ nhựa ngân hàng DONGA Bank có dãy số 9704061808137790 có chữ “PHAM NGOC T” của ba bị cáo Q là ông Phạm Ngọc T; 01 (một) thẻ nhựa căn cước công dân Phạm Trần Thiên Q số 079091004510 (ký hiệu A1) là thật của Phạm Trần Thiên Q, 02 (hai) mắt camera hiệu IMOU. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thuận An ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông Phạm Ngọc T là có căn cứ, đúng pháp luật.

- 01 (một) thẻ nhựa căn cước công dân Phạm Trần Thiên Q số 079091004510 (ký hiệu A2); 01 (một) thẻ nhựa căn cước công dân Trần Quốc Q số 079097012190 (ký hiệu A3); 01 (một) thẻ nhựa Giấy phép lái xe hạng B2 Phạm Trần Quang V, số:

790146965500 (ký hiệu A4); 01 (một) chứng minh nhân dân Phạm Trần Quang V, số:

025114797 (ký hiệu A5); 01 (một) chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 51H – 748.93 mang tên Phạm Ngọc T (ký hiệu A6) là các loại giấy tờ giả của bị cáo Q, 01 (một) thẻ nhựa ngân hàng Sacombank tên “PHUNG DUC P” do bị cáo Q mượn của Phùng Đức P, sinh năm: 1981, HKTT: 82/12, ĐB, Tổ M, Phường N, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng Phùng Đức P không có nhu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với các đồ vật gồm: 01 (một) túi nylon được niêm phong bên trong có đựng 01 (một) bịch nylon màu đen đựng các túi nylon miệng kéo dính; 01 (một) túi nylon niêm phong đựng 01 (một) đoạn ống nhựa có chữ “NHUA BINH”; 01 (một) túi nylon được niêm phong đựng 01 (một) ly thủy tinh kèm 01 (một) đoạn ống hút nhựa màu đen; 01 (một) túi nylon được niêm phong đựng 01 (một) cân điện tử màu trắng có chữ “INSTRUCTIONS”, 01 (một ) cân điện tử màu đen có chữ “POCKET SCALE”, 01 (một) ống nylon bọc thực phẩm; 01 (một) túi nylon được niêm phong đựng ống kim loại kèm 01 (một) túi nylon miệng kéo dính viền đỏ 01 (một) dao bấm màu đen, 01 (một) thẻ sim 4G viettel có dãy số: 8984048000006359165, 01 (một) thẻ sim 1610526109624, nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với một khẩu súng PCP có chữ CRICCKET X, qua công tác giám định xác định là Súng săn, kèm theo 75 viên đạn chì (mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an). Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Phạm Trần Thiên Quang về hành vi sử dụng vũ khí là súng săn không có giấy phép nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô biển số 61G1 – 705.65, kiểu dáng SONIC. Quá trình điều tra xác định do Lê Tuấn K, sinh năm: 1989, HKTT: Khu phố X, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương đứng sở hữu, ông K thường xuyên cho Q mượn xe đi công việc nhưng không biết Q sử dụng xe vào mục đích phạm tội nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương trả lại xe mô tô nêu trên cho Lê Tuấn K là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 150 kèm sim và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 kèm sim, qua điều tra xác định đây là tài sản của bị cáo Q, không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Q.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Huỳnh Ngọc C;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Phạm Trần Thiên Q;

Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự:

1.1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Ngọc C phạm các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc C 08 (tám) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/8/2020.

1.2. Tuyên bố bị cáo Phạm Trần Thiên Q phạm các tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” Xử phạt bị cáo Phạm Trần Thiên Q 02 (hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 03 (ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 03 tội là 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/10/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 03 (ba) bì thư niêm phong ký hiệu số vụ 533/PC09 (M1, M2, M3) (mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương) bên ngoài có chữ ký cán bộ niêm phong Thái Ngọc T, người bị bắt Huỳnh Ngọc C và hình dấu đỏ Công an phường Lái Thiêu, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.

+ 02 (hai) bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

+ 03 (ba) túi nylon được niêm phong, ghi vụ số 628/PC09 (M1, M2, M3), mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên ngoài có chữ ký Phạm Trần Thiên Q, Nguyễn Quốc D, Nguyễn Văn H (bên trong có 01 (một) cân điện tử màu đen có chữ “POCKET SCALE”) + 01 (một) thẻ nhựa căn cước công dân Phạm Trần Thiên Q số 079091004510 (ký hiệu A2) + 01 (một) thẻ nhựa căn cước công dân Trần Quốc Q số 079097012190 (ký hiệu A3) + 01 (một) thẻ nhựa Giấy phép lái xe hạng B2 Phạm Trần Quang V, số:

790146965500 (ký hiệu A4) + 01 (một) chứng minh nhân dân Phạm Trần Quang V, số: 025114797 (ký hiệu A5) + 01 (một) chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 51H – 748.93 mang tên Phạm Ngọc T (ký hiệu A6).

+ 01 (một) thẻ nhựa ngân hàng Sacombank có dãy số 970403948193924 có chữ PHUNG DUC P.

+ 01 (một) túi nylon được niêm phong bên trong có đựng 01 (một) bịch nylon màu đen đựng các túi nylon miệng kéo dính. Bên ngoài có chữ ký Phạm Trần Thiên Q, Nguyễn Quốc D, Nguyễn Văn H.

+ 01 (một) túi nylon niêm phong đựng 01 (một) đoạn ống nhựa có chữ “NHUA BINH”. Bên ngoài có chữ ký Phạm Trần Thiên Q, Nguyễn Quốc D, Nguyễn Văn H.

+ 01 (một) túi nylon được niêm phong đựng 01 (một) ly thủy tinh kèm 01 (một) đoạn ống hút nhựa màu đen bên ngoài có chữ ký Phạm Trần Thiên Q, Nguyễn Quốc D, Nguyễn Văn H.

+ 01 (một) túi nylon được niêm phong đựng 01 (một) cân điện tử màu trắng có chữ INSTRUCTIONS + 01 (một) ống nylon bọc thực phẩm + 01 (một) túi nylon được niêm phong đựng ống kim loại kèm 01 (một) túi nylon miệng kéo dính viền đỏ bên ngoài có chữ ký Phạm Trần Thiên Q, Nguyễn Quốc D, Nguyễn Văn H.

+ 01 (một) dao bấm màu đen + 01 (một) thẻ sim 4G viettel có dãy số: 8984048000006359165 + 01 (một) thẻ sim Mobi có dãy số 1610526109624.

+ 01 (một) khẩu súng PCP có chữ CRICCKET X, kèm theo một hộp kim loại có chữ MENDOS đựng 75 viên đạn chì mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an. Bên ngoài có chữ ký Trịnh Văn S, Ngô Minh T và hình dấu đỏ của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Trần Thiên Q 01 điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu Nokia 1280 kèm sim 4G Mobifone có dãy số 8401190850744696WD và 01 điện thoại di động Nokia 150, màu đen kèm sim số thuê bao 0931.485.657.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/3/2021).

3. Về án phí:

Buộc các bị cáo Huỳnh Ngọc C và Phạm Trần Thiên Q mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật/.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 123/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:123/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;